Network Marketing
Hôm nay tôi sẽ nói chuyện với mọi người về mạng lưới (network) và vì sao nó sẽ là phương thức kinh doanh tất yếu của tương lai.
Mạng lưới lớn nhất mà mọi người đều biết đó là mạng internet. Internet ra đời đã mở ra kỷ nguyên mới cho loài người, rút ngắn hết thảy mọi khoảng cách địa lý.
Mạng xã hội lớn nhất là Facebook, nơi lượng thông tin cá nhân khổng lồ đang được cung cấp miễn phí.
Tại sao phải cần network?
Một ngày mỗi người đều có 24 tiếng, nếu bạn dùng 8 tiếng một ngày để làm việc, bạn có được kết quả của 8 tiếng. Nếu bạn muốn kết quả gấp đôi, bạn phải làm 16 tiếng, nhưng bạn muốn có kết quả gấp 5 lần là điều không khả thi.
Nhưng nếu bạn vẫn muốn có kết quả gấp 5 lần thì bạn phải làm gì? Bạn phải có 4 người khác cùng làm việc giống mình!
Bạn làm việc một mình, nó là sức mạnh đơn lẻ (single power), nhưng nếu bạn tạo ra mạng lưới những người giống mình, bạn có sức mạnh cộng hưởng (multiple power) và không có gì phải suy nghĩ, chắc chắn bạn sẽ muốn bỏ ra 8 tiếng mà có kết quả gấp 5 lần đúng ko? Mạng lưới giúp bạn tạo ra kết quả đó!
Không phải ai cũng dễ dàng lập ra mạng lưới. Bạn muốn lập mạng lưới cửa hàng gà rán? Bạn phải bỏ vốn, phải chứng minh gà rán bạn ngon tuyệt, đông khách ở cửa hàng đầu tiên, sau đó bạn phải tìm những người khác cũng muốn làm gà rán, sẵn sàng bỏ vốn và theo tư tưởng kinh doanh của bạn hoặc không thì bạn lại tiếp tục bỏ vốn.
Tuy nhiên, bạn có sẵn sàng lắng nghe kỹ không nếu tôi chỉ cho bạn cách thiết lập một mạng lưới mà bất kỳ ai cũng có thể làm được: đó là thiết lập MẠNG LƯỚI NGƯỜI TIÊU DÙNG và bạn có thể kiếm được rất nhiều tiền và hơn thế nữa trong mạng lưới đó.
Hàng ngày bạn đến các cửa hàng và siêu thị mua hàng, có rất nhiều mạng lưới cửa hàng và dĩ nhiên họ đang kiếm lời từ những người tiêu dùng như bạn. Bạn có bao giờ nghĩ đến việc họ kiếm được bao tiền trên sản phẩm bạn đã mua không? Tôi cá là bạn chưa từng nghĩ đến điều đó vì hầu hết người tiêu dùng mua hàng dựa trên túi tiền của mình chứ không dựa trên túi lời của cửa hàng.
Thay vì làm việc cật lực để sở hữu một món mỹ phẩm, bạn bằng việc kết nối những người tiêu dùng khác có chung đặc điểm yêu thích món mỹ phẩm giống bạn, bạn có thể kiếm tiền và giúp những người tiêu dùng như bạn cũng kiếm được tiền như bạn. Thay vì trả tiền nuôi nhân viên các cửa hàng kia, bạn buộc nhà sản xuất trả tiền cho bạn vì bạn đã có công thiết lập cho họ một mạng lưới những người tiêu dùng mỹ phẩm của hãng, đó chẳng phải là một mối quan hệ hai bên cùng có lợi hay sao? Sao phải trả tiền quá nhiều cho khâu trung gian mà chính bạn người tiêu dùng phải gánh hết các chi phí đó!
Tôi đang nói với các bạn về ngành kinh doanh mạng lưới người tiêu dùng, đó là kết nối trực tiếp đến tận người tiêu dùng sản phẩm cuối cùng, những người dùng sản phẩm thực sự xứng đáng nhận hoa hồng hơn là những cửa hàng đúng ko?
Và nếu bạn, một người có máu kinh doanh sẽ nghĩ thế nào về điều kiện để bắt đầu dưới đây?
1/ Điều kiện khi đi làm thuê
- Bạn cần nộp bằng cấp phù hợp.
- Bạn kiếm ra 10 đồng nhưng chỉ được trả 3 đồng vì 7 đồng còn lại để nuôi ông chủ (nhiều người nghĩ chủ trả lương cho mình nhưng thực ra là ngược lại)
- Bạn muốn thăng tiến thì phải đá thằng trên ra khỏi vị trí đó.
- Thu nhập của bạn không thể nhiều hơn ông chủ (dĩ nhiên rồi:))
2/ Điều kiện khi tự khởi nghiệp
- Bạn cần tích luỹ một số vốn.
- Bạn cần tích luỹ kiến thức và học hỏi kinh nghiệm.
- Bạn chấp nhận thời gian đầu có thể chưa có lợi nhuận.
- Bạn chấp nhận rủi ro có thể mất tất cả.
3/ Điều kiện khi kinh doanh thiếp lập mạng lưới người tiêu dùng.
- Bỏ ra 0 đồng vốn.
- Chế độ thu nhập rõ ràng minh bạch.
- Thu nhập không giới hạn, bạn làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu. Bạn giỏi bạn có thể có thu nhập vượt lên bất kỳ ai đi trước mà cũng ko cần đá họ ra chỗ khác.
- Bạn có thu nhập mãi mãi từ đời này sang đời khác nếu hệ thống người tiêu dùng đó cũng tồn tại mãi mãi.
Bạn tưởng tượng nếu bạn tạo ra mạng lưới 5000 người tiêu dùng một loại mặt hàng mỹ phẩm thôi, trong đó bạn còn có thể kinh doanh rất nhiều thứ khác. Bạn bán cam, cả 5000 người đó sẽ mua cam của bạn, bạn bán quần áo, mạng lưới đó sẽ mua quần áo của bạn, bạn bán vé máy bay, mạng lưới đó sẽ mua vé máy bay của bạn. Quá là tuyệt vời phải không???
Kinh doanh mạng lưới tuyệt vời đến mức những tỷ phú như Bill Gates hay Donald Trump đều nói rằng nếu mất tất cả và phải làm lại từ đầu, họ sẽ đều chọn Kinh doanh mạng lưới.
Nếu bạn cũng giống mình chọn 3/ ở trên, đừng chần chừ gì nữa, hãy nhắn tin cho mình, mình sẽ dẫn bạn đến với những người thành công nhất trong Kinh doanh mạng lưới hiện nay.
Nếu không mất tiền thì bạn còn sợ mất gì?
Bạn muốn thành công thì nên học hỏi người thành công hay nghe những người chưa bao giờ biết đến thành công ngoài sợ hãi thất bại?
Hãy nhớ rằng người thành công thì Ý CHÍ luôn đi trước rồi mới đến kiến thức theo sau!!!
Chúc các bạn một ngày vui vẻ và hiệu quả
Hôm nay tôi sẽ nói chuyện với mọi người về mạng lưới (network) và vì sao nó sẽ là phương thức kinh doanh tất yếu của tương lai.
Mạng lưới lớn nhất mà mọi người đều biết đó là mạng internet. Internet ra đời đã mở ra kỷ nguyên mới cho loài người, rút ngắn hết thảy mọi khoảng cách địa lý.
Mạng xã hội lớn nhất là Facebook, nơi lượng thông tin cá nhân khổng lồ đang được cung cấp miễn phí.
Tại sao phải cần network?
Một ngày mỗi người đều có 24 tiếng, nếu bạn dùng 8 tiếng một ngày để làm việc, bạn có được kết quả của 8 tiếng. Nếu bạn muốn kết quả gấp đôi, bạn phải làm 16 tiếng, nhưng bạn muốn có kết quả gấp 5 lần là điều không khả thi.
Nhưng nếu bạn vẫn muốn có kết quả gấp 5 lần thì bạn phải làm gì? Bạn phải có 4 người khác cùng làm việc giống mình!
Bạn làm việc một mình, nó là sức mạnh đơn lẻ (single power), nhưng nếu bạn tạo ra mạng lưới những người giống mình, bạn có sức mạnh cộng hưởng (multiple power) và không có gì phải suy nghĩ, chắc chắn bạn sẽ muốn bỏ ra 8 tiếng mà có kết quả gấp 5 lần đúng ko? Mạng lưới giúp bạn tạo ra kết quả đó!
Không phải ai cũng dễ dàng lập ra mạng lưới. Bạn muốn lập mạng lưới cửa hàng gà rán? Bạn phải bỏ vốn, phải chứng minh gà rán bạn ngon tuyệt, đông khách ở cửa hàng đầu tiên, sau đó bạn phải tìm những người khác cũng muốn làm gà rán, sẵn sàng bỏ vốn và theo tư tưởng kinh doanh của bạn hoặc không thì bạn lại tiếp tục bỏ vốn.
Tuy nhiên, bạn có sẵn sàng lắng nghe kỹ không nếu tôi chỉ cho bạn cách thiết lập một mạng lưới mà bất kỳ ai cũng có thể làm được: đó là thiết lập MẠNG LƯỚI NGƯỜI TIÊU DÙNG và bạn có thể kiếm được rất nhiều tiền và hơn thế nữa trong mạng lưới đó.
Hàng ngày bạn đến các cửa hàng và siêu thị mua hàng, có rất nhiều mạng lưới cửa hàng và dĩ nhiên họ đang kiếm lời từ những người tiêu dùng như bạn. Bạn có bao giờ nghĩ đến việc họ kiếm được bao tiền trên sản phẩm bạn đã mua không? Tôi cá là bạn chưa từng nghĩ đến điều đó vì hầu hết người tiêu dùng mua hàng dựa trên túi tiền của mình chứ không dựa trên túi lời của cửa hàng.
Thay vì làm việc cật lực để sở hữu một món mỹ phẩm, bạn bằng việc kết nối những người tiêu dùng khác có chung đặc điểm yêu thích món mỹ phẩm giống bạn, bạn có thể kiếm tiền và giúp những người tiêu dùng như bạn cũng kiếm được tiền như bạn. Thay vì trả tiền nuôi nhân viên các cửa hàng kia, bạn buộc nhà sản xuất trả tiền cho bạn vì bạn đã có công thiết lập cho họ một mạng lưới những người tiêu dùng mỹ phẩm của hãng, đó chẳng phải là một mối quan hệ hai bên cùng có lợi hay sao? Sao phải trả tiền quá nhiều cho khâu trung gian mà chính bạn người tiêu dùng phải gánh hết các chi phí đó!
Tôi đang nói với các bạn về ngành kinh doanh mạng lưới người tiêu dùng, đó là kết nối trực tiếp đến tận người tiêu dùng sản phẩm cuối cùng, những người dùng sản phẩm thực sự xứng đáng nhận hoa hồng hơn là những cửa hàng đúng ko?
Và nếu bạn, một người có máu kinh doanh sẽ nghĩ thế nào về điều kiện để bắt đầu dưới đây?
1/ Điều kiện khi đi làm thuê
- Bạn cần nộp bằng cấp phù hợp.
- Bạn kiếm ra 10 đồng nhưng chỉ được trả 3 đồng vì 7 đồng còn lại để nuôi ông chủ (nhiều người nghĩ chủ trả lương cho mình nhưng thực ra là ngược lại)
- Bạn muốn thăng tiến thì phải đá thằng trên ra khỏi vị trí đó.
- Thu nhập của bạn không thể nhiều hơn ông chủ (dĩ nhiên rồi:))
2/ Điều kiện khi tự khởi nghiệp
- Bạn cần tích luỹ một số vốn.
- Bạn cần tích luỹ kiến thức và học hỏi kinh nghiệm.
- Bạn chấp nhận thời gian đầu có thể chưa có lợi nhuận.
- Bạn chấp nhận rủi ro có thể mất tất cả.
3/ Điều kiện khi kinh doanh thiếp lập mạng lưới người tiêu dùng.
- Bỏ ra 0 đồng vốn.
- Chế độ thu nhập rõ ràng minh bạch.
- Thu nhập không giới hạn, bạn làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu. Bạn giỏi bạn có thể có thu nhập vượt lên bất kỳ ai đi trước mà cũng ko cần đá họ ra chỗ khác.
- Bạn có thu nhập mãi mãi từ đời này sang đời khác nếu hệ thống người tiêu dùng đó cũng tồn tại mãi mãi.
Bạn tưởng tượng nếu bạn tạo ra mạng lưới 5000 người tiêu dùng một loại mặt hàng mỹ phẩm thôi, trong đó bạn còn có thể kinh doanh rất nhiều thứ khác. Bạn bán cam, cả 5000 người đó sẽ mua cam của bạn, bạn bán quần áo, mạng lưới đó sẽ mua quần áo của bạn, bạn bán vé máy bay, mạng lưới đó sẽ mua vé máy bay của bạn. Quá là tuyệt vời phải không???
Kinh doanh mạng lưới tuyệt vời đến mức những tỷ phú như Bill Gates hay Donald Trump đều nói rằng nếu mất tất cả và phải làm lại từ đầu, họ sẽ đều chọn Kinh doanh mạng lưới.
Nếu bạn cũng giống mình chọn 3/ ở trên, đừng chần chừ gì nữa, hãy nhắn tin cho mình, mình sẽ dẫn bạn đến với những người thành công nhất trong Kinh doanh mạng lưới hiện nay.
Nếu không mất tiền thì bạn còn sợ mất gì?
Bạn muốn thành công thì nên học hỏi người thành công hay nghe những người chưa bao giờ biết đến thành công ngoài sợ hãi thất bại?
Hãy nhớ rằng người thành công thì Ý CHÍ luôn đi trước rồi mới đến kiến thức theo sau!!!
Chúc các bạn một ngày vui vẻ và hiệu quả
|
|
Cô giáo trẻ và một câu hỏi
Cô giáo trẻ mới về trường chỉ hỏi đúng 1 câu, đám học sinh hư hỏng chết lặng…
Đây là một câu chuyện có thật trong lịch sử. Tại một trường trung học ở Mỹ, có một lớp học nọ với 26 em học sinh cá biệt. Những em học sinh trong lớp học này đều có tiểu sử không mấy hay ho: em từng tiêm chích ma túy, em từng vào trại cải tạo, thậm chí có một học sinh nữ mà trong một năm đã phá thai tới 3 lần.
Gia đình đều chán nản và đã buông bỏ chúng, các thầy cô giáo trong trường thậm chí cũng coi chúng là đồ bỏ đi. Tưởng chừng cuộc sống đã hết hi vọng thì một ngày kia, Phila, một cô giáo mới về trường đã tình nguyện làm chủ nhiệm của những đứa trẻ hư hỏng này.
Khác với suy đoán của bọn trẻ, trong ngày đầu tiên nhận lớp, Phila đã không hề quát nạt hay ra oai với chúng. Trong chiếc đầm lụa màu xanh nhạt, mái tóc màu nâu hạt dẻ búi cao, Phila bước nhẹ lên bục giảng. Cô dịu dàng nhìn xuống lũ trẻ một lượt rồi cất tiếng với vẻ trầm ngâm:
“Cô sẽ kể cho các em nghe về quá khứ của 3 người đàn ông khác nhau:
Người thứ nhất đã từng có những vụ bê bối về chính trị, rất tin vào y thuật của thầy cúng, ông ta từng có tới 2 tình nhân, hút thuốc nhiều và uống 8-10 ly rượu mạnh mỗi ngày.
Người thứ hai đã 2 lần bị đuổi việc, hôm nào cũng ngủ tới trưa mới dậy và tối nào cũng uống 1 lít rượu brandy. Ông ta từng hít thuốc phiện khi còn là sinh viên…
Người thứ ba là anh hùng chiến tranh của một đất nước. Ông ta ăn chay trường, không bao giờ hút thuốc và thỉnh thoảng mới uống rượu, có uống bia nhưng uống không nhiều. Thời thanh niên chưa từng làm gì phạm pháp và chưa từng có một vụ bê bối tình ái nào.
Cô hỏi cả lớp, trong 3 người, ai sau này sẽ có cống hiến nhiều nhất cho nhân loại?”
Những đứa trẻ đồng thanh chọn người thứ ba sau khi nghe xong câu chuyện, nhưng câu trả lời của Phila đã khiến lũ trẻ chết lặng.
“Các em thân mến! Cô biết chắc là các em sẽ chọn người thứ 3 và cho rằng chỉ ông ta mới có thể cống hiến được nhiều cho nhân loại. Nhưng các em đã sai rồi đấy. Ba người này đều là những nhân vật nổi tiếng trong thế chiến thứ 2.
Người thứ nhất là Franklin Roosevelt, tuy tàn tật nhưng ý chí kiên cường. Ông ta đã đảm nhận chức vụ Tổng thống Mỹ trong bốn nhiệm kỳ liên tiếp.
Người thứ hai là Winston Churchill, vị Thủ tướng nổi tiếng và tài ba nhất trong lịch sử nước Anh.
Còn người thứ ba là Adolf Hitler, con ác quỷ phát xít Đức đã cướp đi sinh mạng của hàng chục triệu người dân vô tội”.
Những đứa trẻ như ngây người trước câu trả lời của Phila và dường như không thể tin nổi vào những gì chúng vừa nghe thấy.
“Các em có biết không, những điều mà cô vừa nói là quá khứ của họ, còn sự nghiệp sau này của họ, là những việc mà họ đã làm sau khi đã thoát ra khỏi cái quá khứ đó. Các em ạ, cuộc sống của các em chỉ mới bắt đầu. Vinh quang và tủi nhục trong quá khứ chỉ đại diện cho quá khứ, còn cái thực sự đại diện cho cuộc đời một con người chính là những việc làm ở hiện tại và tương lai. Hãy bước ra từ bóng tối của quá khứ, bắt đầu làm lại từ hôm nay, cố gắng làm những việc mà các em muốn làm, và cô tin các em sẽ trở thành những người xuất chúng…” – Phila vừa nói vừa nhìn chúng với ánh mắt đầy hi vọng.
Và bạn biết không, sau này khi trưởng thành, rất nhiều học sinh trong số họ đã trở thành những người thành đạt trong cuộc sống. Có người trở thành bác sĩ tâm lý, có người trở thành quan tòa, có người lại trở thành nhà du hành vũ trụ. Và trong số đó phải kể đến Robert Harrison, cậu học sinh thấp nhất và quậy phá nhất lớp, nay đã trở thành Giám đốc tài chính của phố Wall.
Suy ngẫm:
Ý nghĩa của câu chuyện ở đây là bạn hãy đừng bao giờ ngừng hi vọng, ngừng yêu thương, ngừng cố gắng bởi hôm qua chỉ là quá khứ, ngày mai là một điều bí mật, còn ngày hôm nay là một món quà. Và đó là lý sao nó được gọi là “The Present” (hiện tại/món quà).
Trong cuộc đời của con người, mỗi ngày đều có thể là một sự bắt đầu mới mẻ còn những vinh quang và tủi nhục của ngày hôm qua đều chỉ là dĩ vãng. Những việc trong quá khứ nói cho người khác biết bạn đã từng là người như thế nào, nhưng chính những việc làm ở hiện tại và tương lai mới nói lên bạn là ai.
Đừng bao giờ hạ thấp giá trị của mình bằng cách so sánh với người khác.
Đừng bao giờ đặt mục tiêu của mình dựa vào những gì mà người khác cho là quan trọng. Chỉ bạn mới biết được những gì tốt nhất đối với chính mình.
Đừng bao giờ để cuộc sống vuột khỏi tầm tay bằng cách sống khép mình vào trong quá khứ, hay uốn mình vào trong tương lai. Hãy sống cho hiện tại, lúc này và ở đây.
Hãy hướng về phía mặt trời và bạn sẽ không bao giờ nhìn thấy bóng tối.
Và cuối cùng, hãy nhớ rằng, dù người khác có nói với bạn điều gì đi nữa, hãy tin rằng cuộc sống này là kỳ diệu và đẹp đẽ.
Phong Vân
NGƯỜI MẸ ĐIÊN.
Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người. Vì vậy, đàn bà trong làng đi qua cô gái thường nhổ nước bọt, có bà còn chạy lên trước dậm chân, đuổi “Cút cho xa!”. Thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng. Hồi đó, cha tôi đã 35 tuổi. Cha làm việc ở bãi khai thác đá bị máy chém cụt tay trái, nhà lại quá nghèo, mãi không cưới được vợ. Bà nội thấy con điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi, làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi “đứa nối dõi” sẽ đuổi đi liền. Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng đành chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không phải mất đồng xu nào, nghiễm nhiên thành chú rể.
Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẵm cháu, hóp cái miệng chẳng còn mấy cái răng vui sướng nói:
- “Cái con mẹ điên này, mà lại sinh cho bà cái đứa chống gậy rồi!”.
Có điều sinh tôi ra, bà nội ẵm mất tôi, không bao giờ cho mẹ đến gần con. Mẹ chỉ muốn ôm tôi, bao nhiêu lần đứng trước mặt bà nội dùng hết sức gào lên:
- “Ðưa, đưa tôi…”
Bà nội mặc kệ. Tôi còn trứng nước như thế, như khối thịt non, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? Dù sao, mẹ cũng chỉ là con điên. Cứ mỗi khi mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội lại trợn mắt lên chửi:
- “Mày đừng có hòng bế con, tao còn lâu mới đưa cho mày. Tao biết được mày bế nó, tao đánh mày chết. Có đánh chưa chết thì tao cũng sẽ đuổi mày cút!”.
Bà nội nói với vẻ kiên quyết và chắc chắn. Mẹ hiểu ra, mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, mỗi lần chỉ dám đứng ở xa xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được một ngụm sữa mẹ nào, bà nội đút từng thìa từng thìa nuôi cho tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có “bệnh thần kinh”, nếu lây sang tôi thì phiền lắm. Hồi đó nhà tôi vẫn đang giãy giụa giữa vũng bùn lầy của nghèo đói. Ðặc biệt là sau khi có thêm mẹ và tôi, nhà vẫn thường phải treo niêu. Bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại cơm nhà, còn thỉnh thoảng làm thành tiếng thị phi.
Một ngày, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay xúc đầy một bát cơm đưa cho mẹ, bảo:
- “Con dâu, nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô. Cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà nào giàu có hơn một tí mà ở, sau này cấm không được quay lại đây nữa, nghe chửa?”.
Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội tôi hạ “lệnh tiễn khách” liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đờ ra lã tã miệng. Mẹ nhìn tôi đang nằm trong lòng bà, lắp bắp kêu ai oán:
- “Ðừng… đừng…”.
Bà nội sắt mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét:
- “Con dâu điên mày ngang bướng cái gì, bướng thì chả có quả tốt lành gì đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao dung mày hai năm rồi, mày còn đòi cái gì nữa? Ăn hết bát đấy rồi đi đi, nghe thấy chưa hả?”.
Nói đoạn bà nội lôi sau cửa ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất như Dư Thái Quân nắm gậy đầu rồng, “phầm!” một tiếng. Mẹ sợ chết giấc, khiếp nhược lén nhìn bà nội, lại chậm rãi cúi đầu nhìn xuống bát cơm trước mặt, có nước mắt rưới trên những hạt cơm trắng nhệch. Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà một cách đáng thương hại. Bà nội ngồi thẫn thờ, hoá ra, mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ sẽ chỉ ăn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ ngoài.
Bà nội quay đầu đi, nuốt những giọt nước mắt nóng đi, rồi quay lại sắt mặt nói:
- “Ăn mau ăn mau, ăn xong còn đi. Ở nhà này cô cũng chết đói thôi!”.
Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm con cũng không ăn, thập thễnh bước ra khỏi cửa, nhưng mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu không bước ra. Bà nội dằn lòng đuổi:
- “Cô đi, cô đi, đừng có quay đầu lại. Dưới gầm trời này còn nhiều nhà người ta giàu!”.
Mẹ tôi quay lại, đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra, mẹ muốn được ôm tôi một tí. Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tã lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẵm tôi vào lòng, môi nhắp nhắp cười, cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội như gặp quân thù, hai tay đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơn điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ ôm tôi chưa được ba phút, bà nội không đợi được giằng tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa.
Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu biết một chút, tôi mới biết được, ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ. Tôi tìm cha đòi, tìm bà đòi, họ đều nói, mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn bạn cùng làng đều bảo tôi:
- Mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi”.
Tôi tìm bà nội vòi vĩnh, đòi bà phải trả mẹ lại, còn chửi bà là đồ “bà lang sói”, thậm chí hất tung mọi cơm rau bà bưng cho tôi. Ngày đó, tôi làm gì biết “điên” nghĩa là cái gì đâu, tôi chỉ cảm thấy nhớ mẹ tôi vô cùng, mẹ trông như thế nào nhỉ? mẹ còn sống.
Không ngờ, năm tôi sáu tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang. Hôm đó, mấy đứa nhóc bạn tôi chạy như bay tới báo:
- “Thụ, mau đi xem, mẹ mày về rồi kìa, mẹ bị điên của mày về rồi!”
Tôi mừng quá, đít nhổng nhổng, co giò chạy vội ra ngoài, bà nội và cha cũng chạy theo tôi. Ðây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đó vẫn áo quần rách nát, tóc tai còn những vụn cỏ khô vàng khè, có trời mới biết là do ngủ đêm trong đống cỏ nào. Mẹ không dám bước vào cửa, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, trong tay còn cầm một quả bóng bay bẩn thỉu.
Khi tôi và lũ trẻ đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám chúng tôi tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi, nhìn tôi chòng chọc, nhếch mép bảo:
- “Thụ… bóng… bóng…”.
Mẹ đứng lên, liên tục giơ lên quả bóng bay trong tay, dúi vào tôi với vẻ lấy lòng. Tôi thì liên tục lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ ngày đêm tôi nhớ thương lại là cái hình người này. Một thằng cu đứng cạnh tôi kêu to:
- “Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa? Là mẹ mày như thế này đấy!”.
Tôi tức tối đáp lại nó:
- “Nó là mẹ mày ấy! Mẹ mày mới là con điên ấy, mẹ mày mới là thế này!”
Tôi quay đầu chạy trốn. Người mẹ bị điên này tôi không thèm. Bà nội và bố thì lại đưa mẹ về nhà. Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị chất vấn dày vò, bà càng ngày càng già, trái tim bà cũng không còn sắt thép được nữa, nên bà chủ động đưa mẹ về, còn tôi lại bực bội, bởi mẹ đã làm tôi mất thể diện.
Tôi không bao giờ tươi tỉnh với mẹ, chưa bao giờ chủ động nói với mẹ, càng không bao giờ gọi “Mẹ!”, khi phải trao đổi với mẹ, tôi gào là chủ yếu, mẹ không bao giờ dám hé miệng.
Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội quyết định huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi đi làm đồng, bà nội dắt mẹ đi “quan sát học hỏi”, bà bảo mẹ không nghe lời sẽ bị đánh đòn. Sau một thời gian, bà nội nghĩ mẹ đã được dạy dỗ tương đối rồi, liền để mẹ tự đi cắt cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong cả hai bồ “cỏ lợn”. Bà nội vừa nhìn đã tá hỏa sợ hãi, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đòng trỗ bông trong ruộng nhà người ta. Bà nội vừa sợ vừa giận phát cuồng chửi rủa:
- “Con mẹ điên, lúa và cỏ mà không phân biệt được…”
Bà nội còn đang chưa biết nên xoay xở ra sao, thì nhà có ruộng bị cắt lúa tìm tới, mắng bà cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội tôi lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta lấy gậy đánh vào eo lưng con dâu, chửi:
- “Ðánh chết con điên này, mày cút ngay đi cho bà…”
Mẹ tuy điên, nhưng vẫn biết đau, mẹ nhảy nhỏm lên chạy trốn đầu gậy, miệng phát ra những tiếng lắp bắp sợ hãi: “Ðừng… đừng…”. Sau rồi, nhà người ta cũng cảm thấy chướng mắt, chủ động bảo:
- “Thôi, chúng tôi cũng chẳng bắt đền nữa. Sau này giữ cô ta chặt một tí là được…”.
Sau khi cơn sóng gió qua, mẹ oại người dưới đất thút thít khóc. Tôi khinh bỉ bảo:
- “Cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn!”
Lời vừa dứt, gáy tôi bị một cái tát lật. Là bà… Bà trừng mắt bảo tôi:
- “Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy? Mày còn thế này nữa? Ðấy là mẹ mày đấy!”
Tôi vùng vằng bĩu môi:
-”Cháu không có loại mẹ điên khùng thế này!”.
- “A, mày càng ngày càng láo. Xem bà có đánh mày không!”.
Bà nội lại giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt:
- “Ðánh tôi, đánh tôi!”.
Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, đừng đánh tôi. Cánh tay bà trên không trung thõng xuống, miệng lẩm bẩm:
- “Con mẹ điên này, trong lòng nó cũng biết thương con đây!”…
Tôi vào lớp một, cha được một hộ chuyên nuôi cá làng bên mời đi canh hồ cá, mỗi tháng lương 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm ruộng dưới sự chỉ bảo của bà, chủ yếu là đi cắt cỏ lợn, mẹ cũng không còn gây ra vụ rầy rà nào lớn nữa. Nhớ một ngày mùa đông đói rét năm tôi học lớp ba, trời đột ngột đổ mưa, bà nội sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường đến trường tôi, mẹ đã ngã ì ạch mấy lần, toàn thân trông như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ở ngoài cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng còn gọi tôi: “Thụ… ô…”.
Có mấy đứa bạn tôi cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông, oán hận mẹ khủng khiếp, hận mẹ không biết điều, hận mẹ làm tôi xấu hổ, càng hận thằng Hỷ cầm đầu trêu chọc.
Trong lúc nó còn đang khoa trương bắt chước mẹ, tôi chộp cái hộp bút trước mặt, đập thật mạnh cho nó một phát, nhưng thằng Hỷ tránh được. Nó xông tới bóp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau. Tôi nhỏ con, vốn không phải là đối thủ của nó, bị nó dễ dàng đè xuống đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng “vút” kéo dài từ bên ngoài lớp học, mẹ giống như một đại hiệp “bay” ào vào, một tay tóm cổ thằng Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp. Ai cũng bảo người điên rất khỏe, thật sự đúng là như vậy. Mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên trên không trung, nó kinh sợ kêu khóc gọi bố mẹ, một chân béo ị khua khoắng đạp loạn xạ trên không trung. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, rồi mặt thản nhiên, mẹ đi ra.
Mẹ vì tôi gây ra đại họa, mẹ lại làm như không có việc gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, nhìn tôi vẻ muốn lấy lòng. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu của mẹ vẫn tỉnh táo, vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt.
Lúc đó tôi không kìm được kêu lên: “Mẹ!” đây là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. Mẹ sững sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, rồi y hệt như một đứa trẻ con, mặt mẹ đỏ hồng lên, cười ngớ ngẩn.
Hôm đó, lần đầu tiên hai mẹ con tôi cùng che một cái ô về nhà. Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà nội sợ rụng rời ngã ngồi lên ghế, vội vã nhờ người đi gọi cha về.
Cha vừa bước vào nhà, một đám người tráng niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì, trước tiên đập phá mọi bát đũa vò hũ trong nhà nát như tương, trong nhà như vừa có động đất cấp chín. Ðây là những người do nhà thằng Hỷ nhờ tới, bố thằng Hỷ hung hãn chỉ vào cha tôi nói:
- “Con trai tao sợ quá đã phát điên rồi, hiện đang nằm nhà thương. Nhà mày mà không mang 1000 tệ trả tiền thuốc thang, tao cho một mồi lửa đốt tan cái nhà mày ra”.
Một nghìn tệ? Cha đi làm một tháng chỉ 50 tệ! Nhìn những người sát khí đằng đằng nhà thằng Hỷ, cha tôi mắt đỏ lên dần, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt dỡ thắt lưng da, đánh tới tấp khắp đầu mặt mẹ. Một trận lại một trận, mẹ chỉ còn như một con chuột khiếp hãi run rẩy, lại như một con thú săn đã bị dồn vào đường chết, nhảy lên hãi hùng, chạy trốn, cả đời tôi không thể quên tiếng thắt lưng da vụt lạnh lùng lên thân mẹ và những tiếng thê thiết mẹ kêu.
Sau đó phải trưởng đồn cảnh sát đến ngăn bàn tay bạo lực của cha. Kết quả hoà giải của đồn cảnh sát là: Cả hai bên đều có tổn thất, cả hai không nợ nần gì nhau cả. Ai còn gây sự sẽ bắt luôn người đó. Ðám người đi rồi, cha tôi nhìn khắp nhà mảnh vỡ nồi niêu bát đũa tan tành, lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, cha tôi bất ngờ ôm mẹ tôi vào lòng khóc thảm thiết.
- “Mẹ điên ơi, không phải là tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như tôi không đánh thì việc này không thể dàn xếp nổi, nhà mình làm gì có tiền mà đền cho người. Bởi nghèo khổ quá mà thành họa đấy thôi!”.
Cha lại nhìn tôi nói:
- “Thụ, con phải cố mà học lên đại học. Không thì, nhà ta cứ bị người khác bắt nạt suốt đời, nhé!”.
Tôi gật đầu, tôi hiểu…
Mùa hè năm 2000, tôi thi đỗ vào trung học với kết quả xuất sắc. Bà nội tôi vì làm việc cực nhọc cả đời mà mất trước đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Cục Dân Chính khu tự trị Ân Thi (Hồ Bắc) xếp nhà tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, mỗi tháng trợ cấp 40 tệ. Trường tôi học cũng giảm bớt học phí cho tôi, nhờ thế tôi mới có thể học tiếp.
Vì học nội trú, bài vở nhiều, tôi rất ít khi về nhà. Cha tôi vẫn đi làm thuê 50 tệ một tháng, gánh tiếp tế cho tôi đặt lên vai mẹ, không ai thay thế được. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu xong thức ăn, đưa cho mẹ mang đi. Hai mươi ki lô mét đường núi ngoằn ngoèo ruột dê, làm khổ mẹ phải tốn sức ghi nhớ đường đi, gió tuyết cũng vẫn đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào. Ngoài tình yêu mẫu tử ra, tôi không còn cách giải thích nào khác. Y học cũng nên giải thích khám phá hiện tượng này.
27/4/2003, lại là một Chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang đồ ăn cho tôi, mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả, cắn một miếng, cười hỏi mẹ:
- “Ngọt quá, ở đâu ra?”
Mẹ nói:
- “Tôi… tôi hái…” không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ:
- “Mẹ, mẹ càng ngày càng tài giỏi!”. Mẹ cười hì hì.
Trước lúc mẹ về, tôi theo thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong, tôi lại bận rộn ôn tập trước kỳ thi cuối cùng của thời phổ thông. Ngày hôm sau, khi đang ở trên lớp, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài cửa. Thím hỏi tôi, mẹ tôi có đến đưa tiếp tế đồ ăn không? Tôi nói đưa rồi, hôm qua mẹ về rồi. Thím nói:
- “Không, mẹ mày đến giờ vẫn chưa về nhà!”
Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không đi lạc đường? Chặng đường này mẹ đã đi ba năm rồi, có lẽ không thể lạc được. Thím hỏi:
- “Mẹ mày có nói gì không?”
Tôi bảo không, mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi. Thím đập hai tay:
- “Thôi chết rồi, hỏng rồi, có lẽ vì mấy quả đào dại rồi!”
Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi đi men theo đường núi về tìm. Ðường về quả thực có mấy cây đào dại, trên cây chỉ lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả. Chúng tôi cùng lúc nhìn thấy trên thân cây đào có một vết gãy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước. Thím nhìn tôi rồi nói:
- “Chúng ta đi xuống khe vách đá tìm!”
Tôi nói:
- “Thím, thím đừng doạ cháu…”.
Thím không nói năng kéo tôi đi xuống vách núi…
Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi xung quanh, trong tay mẹ còn nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành đám màu đen nặng nề. Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi:
- “Mẹ ơi, Mẹ đau khổ của con ơi! Con hối hận đã nói rằng đào này ngọt! Chính là con đã lấy mạng của mẹ… Mẹ ơi, mẹ sống chẳng được hưởng sung sướng ngày nào…”
Tôi sát đầu tôi vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá dại trên đỉnh núi cũng rớt nước mắt theo tôi.
Ngày 7/8/2003, một trăm ngày sau khi chôn cất mẹ, thư gọi nhập học dát vàng dát bạc của Ðại học Hồ Bắc đi xuyên qua những ngả đường mẹ tôi đã đi, chạy qua những cây đào dại, xuyên qua ruộng lúa đầu làng, “bay” thẳng vào cửa nhà tôi.
Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào đầu ngôi mộ cô tịch của mẹ:
- “MẸ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi, MẸ có nghe thấy không? MẸ có thể ngậm cười nơi chín suối rồi!”.
Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người. Vì vậy, đàn bà trong làng đi qua cô gái thường nhổ nước bọt, có bà còn chạy lên trước dậm chân, đuổi “Cút cho xa!”. Thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng. Hồi đó, cha tôi đã 35 tuổi. Cha làm việc ở bãi khai thác đá bị máy chém cụt tay trái, nhà lại quá nghèo, mãi không cưới được vợ. Bà nội thấy con điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi, làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi “đứa nối dõi” sẽ đuổi đi liền. Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng đành chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không phải mất đồng xu nào, nghiễm nhiên thành chú rể.
Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẵm cháu, hóp cái miệng chẳng còn mấy cái răng vui sướng nói:
- “Cái con mẹ điên này, mà lại sinh cho bà cái đứa chống gậy rồi!”.
Có điều sinh tôi ra, bà nội ẵm mất tôi, không bao giờ cho mẹ đến gần con. Mẹ chỉ muốn ôm tôi, bao nhiêu lần đứng trước mặt bà nội dùng hết sức gào lên:
- “Ðưa, đưa tôi…”
Bà nội mặc kệ. Tôi còn trứng nước như thế, như khối thịt non, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? Dù sao, mẹ cũng chỉ là con điên. Cứ mỗi khi mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội lại trợn mắt lên chửi:
- “Mày đừng có hòng bế con, tao còn lâu mới đưa cho mày. Tao biết được mày bế nó, tao đánh mày chết. Có đánh chưa chết thì tao cũng sẽ đuổi mày cút!”.
Bà nội nói với vẻ kiên quyết và chắc chắn. Mẹ hiểu ra, mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, mỗi lần chỉ dám đứng ở xa xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được một ngụm sữa mẹ nào, bà nội đút từng thìa từng thìa nuôi cho tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có “bệnh thần kinh”, nếu lây sang tôi thì phiền lắm. Hồi đó nhà tôi vẫn đang giãy giụa giữa vũng bùn lầy của nghèo đói. Ðặc biệt là sau khi có thêm mẹ và tôi, nhà vẫn thường phải treo niêu. Bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại cơm nhà, còn thỉnh thoảng làm thành tiếng thị phi.
Một ngày, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay xúc đầy một bát cơm đưa cho mẹ, bảo:
- “Con dâu, nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô. Cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà nào giàu có hơn một tí mà ở, sau này cấm không được quay lại đây nữa, nghe chửa?”.
Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội tôi hạ “lệnh tiễn khách” liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đờ ra lã tã miệng. Mẹ nhìn tôi đang nằm trong lòng bà, lắp bắp kêu ai oán:
- “Ðừng… đừng…”.
Bà nội sắt mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét:
- “Con dâu điên mày ngang bướng cái gì, bướng thì chả có quả tốt lành gì đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao dung mày hai năm rồi, mày còn đòi cái gì nữa? Ăn hết bát đấy rồi đi đi, nghe thấy chưa hả?”.
Nói đoạn bà nội lôi sau cửa ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất như Dư Thái Quân nắm gậy đầu rồng, “phầm!” một tiếng. Mẹ sợ chết giấc, khiếp nhược lén nhìn bà nội, lại chậm rãi cúi đầu nhìn xuống bát cơm trước mặt, có nước mắt rưới trên những hạt cơm trắng nhệch. Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà một cách đáng thương hại. Bà nội ngồi thẫn thờ, hoá ra, mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ sẽ chỉ ăn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ ngoài.
Bà nội quay đầu đi, nuốt những giọt nước mắt nóng đi, rồi quay lại sắt mặt nói:
- “Ăn mau ăn mau, ăn xong còn đi. Ở nhà này cô cũng chết đói thôi!”.
Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm con cũng không ăn, thập thễnh bước ra khỏi cửa, nhưng mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu không bước ra. Bà nội dằn lòng đuổi:
- “Cô đi, cô đi, đừng có quay đầu lại. Dưới gầm trời này còn nhiều nhà người ta giàu!”.
Mẹ tôi quay lại, đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra, mẹ muốn được ôm tôi một tí. Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tã lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẵm tôi vào lòng, môi nhắp nhắp cười, cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội như gặp quân thù, hai tay đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơn điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ ôm tôi chưa được ba phút, bà nội không đợi được giằng tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa.
Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu biết một chút, tôi mới biết được, ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ. Tôi tìm cha đòi, tìm bà đòi, họ đều nói, mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn bạn cùng làng đều bảo tôi:
- Mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi”.
Tôi tìm bà nội vòi vĩnh, đòi bà phải trả mẹ lại, còn chửi bà là đồ “bà lang sói”, thậm chí hất tung mọi cơm rau bà bưng cho tôi. Ngày đó, tôi làm gì biết “điên” nghĩa là cái gì đâu, tôi chỉ cảm thấy nhớ mẹ tôi vô cùng, mẹ trông như thế nào nhỉ? mẹ còn sống.
Không ngờ, năm tôi sáu tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang. Hôm đó, mấy đứa nhóc bạn tôi chạy như bay tới báo:
- “Thụ, mau đi xem, mẹ mày về rồi kìa, mẹ bị điên của mày về rồi!”
Tôi mừng quá, đít nhổng nhổng, co giò chạy vội ra ngoài, bà nội và cha cũng chạy theo tôi. Ðây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đó vẫn áo quần rách nát, tóc tai còn những vụn cỏ khô vàng khè, có trời mới biết là do ngủ đêm trong đống cỏ nào. Mẹ không dám bước vào cửa, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, trong tay còn cầm một quả bóng bay bẩn thỉu.
Khi tôi và lũ trẻ đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám chúng tôi tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi, nhìn tôi chòng chọc, nhếch mép bảo:
- “Thụ… bóng… bóng…”.
Mẹ đứng lên, liên tục giơ lên quả bóng bay trong tay, dúi vào tôi với vẻ lấy lòng. Tôi thì liên tục lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ ngày đêm tôi nhớ thương lại là cái hình người này. Một thằng cu đứng cạnh tôi kêu to:
- “Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa? Là mẹ mày như thế này đấy!”.
Tôi tức tối đáp lại nó:
- “Nó là mẹ mày ấy! Mẹ mày mới là con điên ấy, mẹ mày mới là thế này!”
Tôi quay đầu chạy trốn. Người mẹ bị điên này tôi không thèm. Bà nội và bố thì lại đưa mẹ về nhà. Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị chất vấn dày vò, bà càng ngày càng già, trái tim bà cũng không còn sắt thép được nữa, nên bà chủ động đưa mẹ về, còn tôi lại bực bội, bởi mẹ đã làm tôi mất thể diện.
Tôi không bao giờ tươi tỉnh với mẹ, chưa bao giờ chủ động nói với mẹ, càng không bao giờ gọi “Mẹ!”, khi phải trao đổi với mẹ, tôi gào là chủ yếu, mẹ không bao giờ dám hé miệng.
Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội quyết định huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi đi làm đồng, bà nội dắt mẹ đi “quan sát học hỏi”, bà bảo mẹ không nghe lời sẽ bị đánh đòn. Sau một thời gian, bà nội nghĩ mẹ đã được dạy dỗ tương đối rồi, liền để mẹ tự đi cắt cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong cả hai bồ “cỏ lợn”. Bà nội vừa nhìn đã tá hỏa sợ hãi, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đòng trỗ bông trong ruộng nhà người ta. Bà nội vừa sợ vừa giận phát cuồng chửi rủa:
- “Con mẹ điên, lúa và cỏ mà không phân biệt được…”
Bà nội còn đang chưa biết nên xoay xở ra sao, thì nhà có ruộng bị cắt lúa tìm tới, mắng bà cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội tôi lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta lấy gậy đánh vào eo lưng con dâu, chửi:
- “Ðánh chết con điên này, mày cút ngay đi cho bà…”
Mẹ tuy điên, nhưng vẫn biết đau, mẹ nhảy nhỏm lên chạy trốn đầu gậy, miệng phát ra những tiếng lắp bắp sợ hãi: “Ðừng… đừng…”. Sau rồi, nhà người ta cũng cảm thấy chướng mắt, chủ động bảo:
- “Thôi, chúng tôi cũng chẳng bắt đền nữa. Sau này giữ cô ta chặt một tí là được…”.
Sau khi cơn sóng gió qua, mẹ oại người dưới đất thút thít khóc. Tôi khinh bỉ bảo:
- “Cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn!”
Lời vừa dứt, gáy tôi bị một cái tát lật. Là bà… Bà trừng mắt bảo tôi:
- “Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy? Mày còn thế này nữa? Ðấy là mẹ mày đấy!”
Tôi vùng vằng bĩu môi:
-”Cháu không có loại mẹ điên khùng thế này!”.
- “A, mày càng ngày càng láo. Xem bà có đánh mày không!”.
Bà nội lại giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt:
- “Ðánh tôi, đánh tôi!”.
Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, đừng đánh tôi. Cánh tay bà trên không trung thõng xuống, miệng lẩm bẩm:
- “Con mẹ điên này, trong lòng nó cũng biết thương con đây!”…
Tôi vào lớp một, cha được một hộ chuyên nuôi cá làng bên mời đi canh hồ cá, mỗi tháng lương 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm ruộng dưới sự chỉ bảo của bà, chủ yếu là đi cắt cỏ lợn, mẹ cũng không còn gây ra vụ rầy rà nào lớn nữa. Nhớ một ngày mùa đông đói rét năm tôi học lớp ba, trời đột ngột đổ mưa, bà nội sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường đến trường tôi, mẹ đã ngã ì ạch mấy lần, toàn thân trông như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ở ngoài cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng còn gọi tôi: “Thụ… ô…”.
Có mấy đứa bạn tôi cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông, oán hận mẹ khủng khiếp, hận mẹ không biết điều, hận mẹ làm tôi xấu hổ, càng hận thằng Hỷ cầm đầu trêu chọc.
Trong lúc nó còn đang khoa trương bắt chước mẹ, tôi chộp cái hộp bút trước mặt, đập thật mạnh cho nó một phát, nhưng thằng Hỷ tránh được. Nó xông tới bóp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau. Tôi nhỏ con, vốn không phải là đối thủ của nó, bị nó dễ dàng đè xuống đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng “vút” kéo dài từ bên ngoài lớp học, mẹ giống như một đại hiệp “bay” ào vào, một tay tóm cổ thằng Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp. Ai cũng bảo người điên rất khỏe, thật sự đúng là như vậy. Mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên trên không trung, nó kinh sợ kêu khóc gọi bố mẹ, một chân béo ị khua khoắng đạp loạn xạ trên không trung. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, rồi mặt thản nhiên, mẹ đi ra.
Mẹ vì tôi gây ra đại họa, mẹ lại làm như không có việc gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, nhìn tôi vẻ muốn lấy lòng. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu của mẹ vẫn tỉnh táo, vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt.
Lúc đó tôi không kìm được kêu lên: “Mẹ!” đây là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. Mẹ sững sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, rồi y hệt như một đứa trẻ con, mặt mẹ đỏ hồng lên, cười ngớ ngẩn.
Hôm đó, lần đầu tiên hai mẹ con tôi cùng che một cái ô về nhà. Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà nội sợ rụng rời ngã ngồi lên ghế, vội vã nhờ người đi gọi cha về.
Cha vừa bước vào nhà, một đám người tráng niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì, trước tiên đập phá mọi bát đũa vò hũ trong nhà nát như tương, trong nhà như vừa có động đất cấp chín. Ðây là những người do nhà thằng Hỷ nhờ tới, bố thằng Hỷ hung hãn chỉ vào cha tôi nói:
- “Con trai tao sợ quá đã phát điên rồi, hiện đang nằm nhà thương. Nhà mày mà không mang 1000 tệ trả tiền thuốc thang, tao cho một mồi lửa đốt tan cái nhà mày ra”.
Một nghìn tệ? Cha đi làm một tháng chỉ 50 tệ! Nhìn những người sát khí đằng đằng nhà thằng Hỷ, cha tôi mắt đỏ lên dần, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt dỡ thắt lưng da, đánh tới tấp khắp đầu mặt mẹ. Một trận lại một trận, mẹ chỉ còn như một con chuột khiếp hãi run rẩy, lại như một con thú săn đã bị dồn vào đường chết, nhảy lên hãi hùng, chạy trốn, cả đời tôi không thể quên tiếng thắt lưng da vụt lạnh lùng lên thân mẹ và những tiếng thê thiết mẹ kêu.
Sau đó phải trưởng đồn cảnh sát đến ngăn bàn tay bạo lực của cha. Kết quả hoà giải của đồn cảnh sát là: Cả hai bên đều có tổn thất, cả hai không nợ nần gì nhau cả. Ai còn gây sự sẽ bắt luôn người đó. Ðám người đi rồi, cha tôi nhìn khắp nhà mảnh vỡ nồi niêu bát đũa tan tành, lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, cha tôi bất ngờ ôm mẹ tôi vào lòng khóc thảm thiết.
- “Mẹ điên ơi, không phải là tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như tôi không đánh thì việc này không thể dàn xếp nổi, nhà mình làm gì có tiền mà đền cho người. Bởi nghèo khổ quá mà thành họa đấy thôi!”.
Cha lại nhìn tôi nói:
- “Thụ, con phải cố mà học lên đại học. Không thì, nhà ta cứ bị người khác bắt nạt suốt đời, nhé!”.
Tôi gật đầu, tôi hiểu…
Mùa hè năm 2000, tôi thi đỗ vào trung học với kết quả xuất sắc. Bà nội tôi vì làm việc cực nhọc cả đời mà mất trước đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Cục Dân Chính khu tự trị Ân Thi (Hồ Bắc) xếp nhà tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, mỗi tháng trợ cấp 40 tệ. Trường tôi học cũng giảm bớt học phí cho tôi, nhờ thế tôi mới có thể học tiếp.
Vì học nội trú, bài vở nhiều, tôi rất ít khi về nhà. Cha tôi vẫn đi làm thuê 50 tệ một tháng, gánh tiếp tế cho tôi đặt lên vai mẹ, không ai thay thế được. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu xong thức ăn, đưa cho mẹ mang đi. Hai mươi ki lô mét đường núi ngoằn ngoèo ruột dê, làm khổ mẹ phải tốn sức ghi nhớ đường đi, gió tuyết cũng vẫn đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào. Ngoài tình yêu mẫu tử ra, tôi không còn cách giải thích nào khác. Y học cũng nên giải thích khám phá hiện tượng này.
27/4/2003, lại là một Chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang đồ ăn cho tôi, mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả, cắn một miếng, cười hỏi mẹ:
- “Ngọt quá, ở đâu ra?”
Mẹ nói:
- “Tôi… tôi hái…” không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ:
- “Mẹ, mẹ càng ngày càng tài giỏi!”. Mẹ cười hì hì.
Trước lúc mẹ về, tôi theo thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong, tôi lại bận rộn ôn tập trước kỳ thi cuối cùng của thời phổ thông. Ngày hôm sau, khi đang ở trên lớp, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài cửa. Thím hỏi tôi, mẹ tôi có đến đưa tiếp tế đồ ăn không? Tôi nói đưa rồi, hôm qua mẹ về rồi. Thím nói:
- “Không, mẹ mày đến giờ vẫn chưa về nhà!”
Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không đi lạc đường? Chặng đường này mẹ đã đi ba năm rồi, có lẽ không thể lạc được. Thím hỏi:
- “Mẹ mày có nói gì không?”
Tôi bảo không, mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi. Thím đập hai tay:
- “Thôi chết rồi, hỏng rồi, có lẽ vì mấy quả đào dại rồi!”
Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi đi men theo đường núi về tìm. Ðường về quả thực có mấy cây đào dại, trên cây chỉ lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả. Chúng tôi cùng lúc nhìn thấy trên thân cây đào có một vết gãy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước. Thím nhìn tôi rồi nói:
- “Chúng ta đi xuống khe vách đá tìm!”
Tôi nói:
- “Thím, thím đừng doạ cháu…”.
Thím không nói năng kéo tôi đi xuống vách núi…
Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi xung quanh, trong tay mẹ còn nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành đám màu đen nặng nề. Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi:
- “Mẹ ơi, Mẹ đau khổ của con ơi! Con hối hận đã nói rằng đào này ngọt! Chính là con đã lấy mạng của mẹ… Mẹ ơi, mẹ sống chẳng được hưởng sung sướng ngày nào…”
Tôi sát đầu tôi vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá dại trên đỉnh núi cũng rớt nước mắt theo tôi.
Ngày 7/8/2003, một trăm ngày sau khi chôn cất mẹ, thư gọi nhập học dát vàng dát bạc của Ðại học Hồ Bắc đi xuyên qua những ngả đường mẹ tôi đã đi, chạy qua những cây đào dại, xuyên qua ruộng lúa đầu làng, “bay” thẳng vào cửa nhà tôi.
Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào đầu ngôi mộ cô tịch của mẹ:
- “MẸ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi, MẸ có nghe thấy không? MẸ có thể ngậm cười nơi chín suối rồi!”.
xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx
Những câu nói đáng ghi nhớ của Đức Đạt Lai Lạt Ma
- Nếu một vấn đề có thể giải quyết được, chẳng có gì mà phải lo lắng.
- Nếu một vấn đề không thể giải quyết được, lo lắng cũng chẳng có ích gì. Vậy thì tại sao phải lo lắng ?
- Im lặng đôi khi là câu trả lời tốt nhất.
- Mục đích chính trong đời của chúng ta là giúp đỡ kẻ khác. Và nếu bạn không thể giúp họ, ít nhất đừng hại họ.”
- Hạnh phúc không phải là điều tự nhiên mà có. Nó đến từ những hành động của chính bạn.”
- Đây là tôn giáo đơn giản của tôi. Không cần đền chùa. Không cần triết lý phức tạp. Tâm trí bạn chính là đền chùa. Và lòng tốt chính là triết lý.
- Hãy nhìn những đứa trẻ. Khi chúng giận ai, chúng biểu lộ ra, xong rồi thôi. Chúng vẫn có thể chơi với người đó vào ngày mai.
- Càng được thúc đẩy bởi tình yêu, hành động của bạn càng tự do và không sợ hãi.
- Chúng ta có thể sống mà không có tôn giáo hay thiền định, nhưng chúng ta không thể sống mà không có tình người.”
- Bạn cũ đi, bạn mới đến. Cũng như ngày cũ đi, ngày mới đến. Điều quan trọng là phải làm sao cho nó có ý nghĩa, một người bạn ý nghĩa, hay một ngày mới ý nghĩa.
- Chúng ta không bao giờ có thể có được hòa bình trên thế giới cho tới khi chúng ta có được hòa bình trong thâm tâm.
- Mục đích của tất cả những truyền thống tôn giáo lớn trên thế giới không phải là để xây dựng những ngôi đền to lớn bên ngoài, mà là để xây dựng những ngôi đền thiện lành và từ bi bên trong, trong trái tim chúng ta.
- Tôn giáo của tôi rất đơn giản. Tôn giáo của tôi là lòng tốt !
- Nếu một vấn đề có thể giải quyết được, chẳng có gì mà phải lo lắng.
- Nếu một vấn đề không thể giải quyết được, lo lắng cũng chẳng có ích gì. Vậy thì tại sao phải lo lắng ?
- Im lặng đôi khi là câu trả lời tốt nhất.
- Mục đích chính trong đời của chúng ta là giúp đỡ kẻ khác. Và nếu bạn không thể giúp họ, ít nhất đừng hại họ.”
- Hạnh phúc không phải là điều tự nhiên mà có. Nó đến từ những hành động của chính bạn.”
- Đây là tôn giáo đơn giản của tôi. Không cần đền chùa. Không cần triết lý phức tạp. Tâm trí bạn chính là đền chùa. Và lòng tốt chính là triết lý.
- Hãy nhìn những đứa trẻ. Khi chúng giận ai, chúng biểu lộ ra, xong rồi thôi. Chúng vẫn có thể chơi với người đó vào ngày mai.
- Càng được thúc đẩy bởi tình yêu, hành động của bạn càng tự do và không sợ hãi.
- Chúng ta có thể sống mà không có tôn giáo hay thiền định, nhưng chúng ta không thể sống mà không có tình người.”
- Bạn cũ đi, bạn mới đến. Cũng như ngày cũ đi, ngày mới đến. Điều quan trọng là phải làm sao cho nó có ý nghĩa, một người bạn ý nghĩa, hay một ngày mới ý nghĩa.
- Chúng ta không bao giờ có thể có được hòa bình trên thế giới cho tới khi chúng ta có được hòa bình trong thâm tâm.
- Mục đích của tất cả những truyền thống tôn giáo lớn trên thế giới không phải là để xây dựng những ngôi đền to lớn bên ngoài, mà là để xây dựng những ngôi đền thiện lành và từ bi bên trong, trong trái tim chúng ta.
- Tôn giáo của tôi rất đơn giản. Tôn giáo của tôi là lòng tốt !
NGƯỜI HỌC TRÒ ĐẠP XÍCH LÔ
Lê Khánh Mai
Kết thúc đợt công tác ở Hà Nội, tôi trở về trên chuyến tàu Thống Nhất, đến ga Nha Trang lúc 12 giờ đêm. Chị phát thanh viên đón chào hành khách bằng cái giọng trầm khàn vọng vào đêm sâu làm cho cả con tàu bừng tỉnh giấc. Niềm háo hức của người đi xa, về với nơi thân thuộc gắn bó khiến bước chân tôi nhanh nhẹn lạ thường. Nhoáng một cái tôi đã ở ngoài phố. Thật yên tĩnh: vườn hoa với những chiếc ghế đá trầm ngâm; con đường thoáng đãng, mải miết chạy dài về phía biển. Tôi gọi xích lô để được về thật nhanh với ngôi nhà ấm cúng, nơi có những đứa con kháu khỉnh, mà những ngày xa lòng tôi nôn nao nhớ. Một người đạp chiếc xích lô tiến lại. Dưới ánh điện nhập nhoà, tôi thấy đó là một thanh niên dáng dong dỏng, mặc chiếc áo sẫm màu vá nhiều miếng to, chiếc mũ lá rộng vành sụp xuống mặt. Cậu ta còn quá trẻ - tôi đoán vậy
- Về phố Cửu Long bao nhiêu em?
Tôi hỏi giá, vì nghe nói giá xe ban đêm gấp đôi ban ngày, vả lại túi tôi đã cạn sau chuyến đi dài.
- Dạ mười ngàn .
Chàng trai đáp một cách từ tốn và rất nhỏ. Tôi nghĩ, không phải đi bộ quãng đường hai cây số, mà chỉ mất chừng ấy tiền thì không nên đắn đo. Nhưng tôi có quyền mặc cả cơ mà:
- Năm ngàn nhé!
- Dạ.
Tiếng “dạ” có vẻ nhỏ hơn. Tôi lên xe, thầm nghĩ chàng trai này dễ chịu thật, loại người chăm chỉ đây, chắc hoàn cảnh khó khăn nên mới phải làm lụng đêm hôm vất vả thế này.
Thành phố ngủ say. Không có tiếng động nào ngoài tiếng xích xe nhịp đều đều theo đôi chân mải miết của chàng trai. Những vòm cây, những mái nhà tôi đã bao lần đi qua, dừng lại, ngắm nhìn, vậy mà trong đêm, tất cả trở nên lạ lẫm. Tất cả đột ngột hiện ra rồi lặng lẽ lùi vào vắng vẻ.
Tôi yêu sự yên tĩnh này bằng một cảm xúc mới mẻ như lần đầu tiên tôi nhận ra cái thơ mộng của phố xá lúc đêm khuya. Tôi hít sâu vào lồng ngực, hưởng lấy chút không khí trong lành ẩm ướt hơi sương. Chưa kịp nghĩ ngợi gì thì xe đã dừng lại trước cảnh cổng sắt sơn xanh ẩn giữa bờ hoa giấy. Tôi trả tiền, chàng trai không nhận, chỉ vội vã quay xe, rồi nói, vẫn cái giọng rất nhỏ:
- Cô về nghỉ ạ, em đi.
Bây giờ tôi mới ngẩn nhìn chàng trai:
- Phương!
Tôi thốt lên ngạc nhiên, ngỡ ngàng nhận ra cậu học trò lớp 12A mà tôi đang chủ nhiệm. Không nói được gì thêm, tôi đứng trân trân giữa đường nhìn theo bóng Phương lẫn vào phố vắng. Một cảm giác xấu hổ làm tôi đau nhói. Tôi trách mình sao vô tình đến thế? Sao tôi không nhận ra Phương. Phải vì em mặc chiếc áo vá nhiều miếng to? Tôi lại còn mặc cả tiền bạc nữa chứ. Điều này có vẻ mâu thuẫn với những những gì hay ho mà tôi say sưa rao giảng trên lớp. Những ý nghĩ xót xa dày vò khiến tôi đứng ngoài phố một lúc lâu mới gọi người nhà mở cửa. Đêm ấy tôi trằn trọc cho đến khi đài phát thanh thành phố truyền đi bản nhạc quen thuộc đầu tiên trong ngày.
* * *
Tôi đến lớp với tâm trạng buồn khó tả. Câu chuyện hôm qua giúp tôi hiểu rằng không thể đánh giá học sinh một cách hời hợt, nông cạn. Năm mươi học sinh ngồi đây là năm mươi thế giới bí ẩn. Tâm hồn các em như cầu vồng bảy sắc mà ta bất chợt nhìn thấy nhờ những tia sáng mặt trời.
Phương vẫn ngồi kia, góc cuối lớp, nét mặt không gì đổi khác, mà sao bây giờ tôi mới nhìn kỹ, cái mũi cao thẳng trên khuôn mặt khôi ngô, đôi mắt luôn ngời lên ánh nhìn thông minh và ngay thật. Bao giờ Phương cũng chỉnh tề với mái tóc gọn gàng, áo sơ mi tém trong chiếc quần xanh ngay ngắn. Cái dáng cao và nước da trắng làm nên vẻ thư sinh, khiến tôi không nhận ra em trong “vai” chàng trai đạp xích lô đêm qua.
Tôi nhớ lại những cuộc họp hội đồng giáo dục, nhiều ý kiến phản ánh tình hình học sinh. Để tiếp tục cắp sách đến trường đối với các em không đơn giản chút nào. Có em phải bán trứng luộc trên tàu, bán hành rong ngoài bờ biển, gánh nước thuê, đạp xích lô… Tôi cho rằng đó là những thực tế không tránh khỏi của miền Nam sau giải phóng, nhưng lại đinh ninh rằng lớp tôi không có những trường hợp như vậy, bởi vì ánh mắt các em bình thản, vô tư lắm. Hoá ra lâu nay tôi toàn nhận xét học sinh theo cảm tính. Tôi có biết đâu, đằng sau tiếng cười hồn nhiên của các em là một cuộc sống đầy vất vả, lo toan.
Tôi không thể làm ngơ trước một học trò như Phương được. Tôi phải tìm hiểu hoàn cảnh, tâm tư của em, ý nghĩ đó thúc bách tôi mạnh mẽ. Giờ nghỉ, tôi gọi Phương ra hành lang.
- Hôm qua cô có lỗi là không nhận ra em. Cám ơn em đã đưa cô về nhà, nhưng tại sao em lại có vẻ tránh cô thế nhỉ?
- Thưa cô, Em thực sự không muốn cô phải bận lòng nhiều vì chúng em…
- Sao em phải đạp xích lô ban đêm?
- Dạ, em thuê chiếc xích lô này. Chủ xe đi ban ngày, ban đêm họ nghỉ, cho thuê.
- Đêm nào cũng vậy, còn thời gian nào mà nghỉ ngơi?
- Thường lệ cứ 7 giờ tối, em đi các phố đón khách, sau đó lên ga chờ khách xuống tàu. Em về nhà lúc 2 giờ sáng ngủ đến 5 giờ dậy, đi học.
- Ngủ ít vậy mà cô không thấy em ngủ gật?
- Dạ, em quen rồi.
- Cô còn mắc nợ em đấy, chủ nhật cô đến nhà thăm em được chứ?
Phương “dạ” một tiếng rồi đi vào lớp, hoà trong đám học sinh đang gõ bàn hát ầm ĩ. Tôi nghĩ, em không thể sống vô tư.
* * *
Phương ở trong hẻm một khu phố lao động. Căn nhà chật chội, với những đồ vật sơ sài sắp đặt không được hợp lý lắm. Tất cả muốn nói rằng cái “hậu phương” của em chẳng có gì là vững chắc. Phương kéo ghế, mời tôi ngồi, cử chỉ chững chạc, lễ độ và tự nhiên, không có sự khúm núm mà tôi thường gặp ở một số học sinh. Vừa rót nước ra những chiếc ly thủy tinh, em vừa kể:
“Bố em là lính, mất tích trước 1975. Mẹ em cũng mới mất cách đây hai năm. Bệnh hen suyễn đã hành hạ bà suốt cuộc đời. Cho đến giờ em vẫn không thể nào quên hình ảnh mẹ khô gầy, hố mắt trũng sâu, đêm đêm không ngủ được, mẹ phải dựa lưng vào vách, há miệng ra thở những hơi thở khò khè, nặng nhọc. Căn bệnh hiểm nghèo, nên mọi sự chữa chạy đều vô hiệu. Mỗi lần lên cơn khó thở, mẹ co rúm người, vật vã khổ sở. Mẹ bảo chỉ mong chết. Em ước mình là bác sĩ để cứu mẹ. Mẹ mất, cuộc sống chúng em càng khó khăn. Hai đứa em nhỏ cũng đang tuổi ăn học. Mấy lần em tính bỏ học, đi làm kiếm tiền nuôi các em, nhưng xa lớp, xa các bạn, nhớ quá, không chịu nổi. Mới lại em ước mơ trở thành bác sĩ nên phải cố gắng cô ạ…”
Bây giờ thì tôi hiểu vì sao Phương học giỏi. Mỗi sự vươn lên để chiến thắng hoàn cảnh, đều có một động lực bên trong. Từ đó, mỗi khi giảng bài, tôi thường nhìn vào mắt em, ở đó niềm hy vọng đang cháy lên và tôi như được tiếp thêm sức mạnh.
* * *
Bẵng đi một thời gian dài, dễ đến bảy, tám năm, tôi đã là bà giáo thâm niên trong nghề. Bao nhiêu lớp học sinh đi qua cuộc đời, bao nhiêu gương mặt lưu lại trong tâm trí, có những điều bị xoá nhoà, lãng quên, có những niềm vui, nỗi buồn khắc sâu thành kỷ niệm. Tôi bắt đầu ngấm mệt, bắt đầu cảm nhận những bất cập và cả nỗi buồn của nghề dạy học.
Một buổi sáng, sau khi dạy xong bốn tiết văn, tôi bước ra khỏi lớp bỗng thấy đầu choáng váng mắt nhoà đi, cổ họng đau cứng như có vật gì to lắm chẹn lại, ngực tức tựa hồ ai đem đặt vào đó một tảng đá. Tôi ho rũ và khạc ra một cục máu đỏ bầm to bằng đầu ngón tay. Không tin ở mắt mình, tôi nhìn kỹ lại, thì đúng là một cục máu. Tôi bàng hoàng kinh sợ, nghĩ đó là dấu hiệu của bệnh “lao” và rùng mình nhớ đến những đồng nghiệp của tôi đã chết vì lao phổi. Hai mươi năm cầm phấn, viết và nói, tôi đã hít không biết bao nhiêu vi trùng. Những hạt bụi trắng, li ti mà những người làm thơ, làm nhạc đã tha thiết ngợi ca. Tuổi trẻ vốn tin vào những gì đẹp đẽ. Tôi cũng một thời thi vị hoá bụi phấn. Cứ để mặc cho phấn nhuộm trắng bàn tay như một bông hoa huệ; Cứ để phấn bám đầy quần áo, rắc mịn màng lên tóc, bay vào mũi, vào miệng, đó mới thật sự yêu nghề, xả thân vì đạo. Cứ gào lên mà giảng, chẳng hề băn khoăn về hai lá phổi. Mấy lần thấy đau cuống họng, ngậm vài viên ômai ngòn ngọt, dìu dịu lại nói rất say sưa. Có lúc mệt lử tự dặn mình đừng hăng quá, phí sức, nói nhỏ lại, ít đi, chậm rãi hơn, nhưng gặp chỗ tâm đắc, hứng lên, lại thao thao bất tuyệt. Chợt nhớ mình quá đà thì cổ họng đã sưng tấy lên rồi.
Lần này không thể xem thường, tôi phải đến bệnh viện. Phòng khám khá đông. Tôi lấy cuốn sách “Giáo dục con người chân chính” của Xu-khôm-lin-xki ra đọc, chờ đến phiên mình.
- Chào cô ạ - Một người mặc áo bơ - lu trắng, mang kính cận, nhìn tôi, cười:
- Thưa cô, cô khám bệnh ạ, cô có nhận ra em không?
Trong giây lát, những gương mặt học trò lần lượt hiện lên trong trí nhớ.
- A, Phương! – Tôi khẽ reo lên - Thế ra bây giờ em không tránh cô như dạo trước nữa.
- Dạ. Sau khi tốt nghiệp đại học Y khoa, em về làm việc bệnh viện này. Thưa cô, mời cô vào phòng khám.
Hôm ấy, chính Phương đã khám bệnh cho tôi, đôi mắt em nheo lại, đăm chiêu dõi theo từng nhịp thở của tôi qua chiếc ống nghe. Sự bình tĩnh và thành thạo của Phương làm cho tôi hoàn toàn tin cậy. Tôi đâu còn là cô giáo của em như ngày nào trang nghiêm trên bục giảng. Tôi là bệnh nhân, còn em là thầy thuốc. Phương đưa tôi đến phòng khám tai mũi họng, khoa X quang chụp phổi. Cử chỉ của Phương khẩn trương, dứt khoát, tôi chỉ biết phục tùng như một cái máy. Sau đó, tôi đến ghế đá vườn hoa giữa bệnh viện ngồi chờ kết quả xét nghiệm. Một chiếc lá xanh non khẽ chạm vào tay tôi như một cử chỉ dịu dàng. Chẳng có cơn gió nào giật đi chiếc lá như trong truyện của O. Henry. Vây quanh tôi là muôn nghìn con mắt lá, tràn trề hy vọng. Ngồi ở vườn hoa tôi có thể nhìn toàn cảnh bệnh viện. Một chiếc cáng đưa một bệnh nhân vừa chết xuống Nhà vĩnh biệt, những tiếng khóc dữ dội đi theo. Một anh thanh niên ngồi ở ghế đá bên cạnh nở một nụ cười sung sướng khi có người đến báo tin vợ anh vừa sinh con trai đầu lòng. Ở đây sự sống và cái chết diễn ra trong khoảnh khắc. Nếu có khi nào ta đứng trong khoảnh khắc ấy sẽ cảm nhận sâu sắc hơn hạnh phúc và khổ đau. Những người thầy thuốc là những chiến sĩ gan góc, họ đang chiến đấu âm thầm, giành lại sự sống, niềm hạnh phúc cho con người, mà sao bây giờ tôi mới thấm thía điều này. Phải chăng, chỉ lúc nào ta là bệnh nhân, bị nỗi đau thể xác dày vò, ta mới suy nghĩ về công lao của người thầy thuốc?
Chị bạn tôi là bác sĩ phàn nàn rằng “nghề Y khổ sở lắm. Mổ bụng người, cắt cả khúc ruột thừa, mà tiền bồi dưỡng không bằng tiền trả cho anh thợ ngồi ở đầu đường vá cái ruột xe”. Ồ, thế thì nghề dạy học của tôi có hơn gì? Tiền bồi dưỡng cho một giờ dạy học ngoài tiêu chuẩn, gọi là giờ phụ trội, chỉ mua được một quả chanh. những chuyện như thế thật vô cùng, làm sao có thể ghi hết bằng vài trang truyện? Có điều là tôi, chị và tất cả mọi người vẫn sống, vẫn làm việc. Chúng ta là những trí thức không thể lạc quan theo kiểu A-Q nhưng chắc chắn còn có một sức mạnh vô hình nào quyết định sự sống của ta. Bát cơm, manh áo, chẳng đơn giản chút nào, nó làm ta chóng mặt. Nhưng đáng sợ hơn khi trái tim ngủ yên, bộ óc ngủ yên…
Có những lúc tôi tưởng mình sắp ngã xuống giữa bục gíảng cao và vững chãi như cái điểm tựa kia. Nhưng rồi lòng tự trọng đã buộc tôi phải đứng lên với một tư thế đàng hoàng. Mỗi giờ dạy thất bại khiến tôi đau đớn hơn cả nỗi đau thể xác. Mỗi một giờ dạy thành công thì niềm hạnh phúc ùa đến ngập tràn, như được hồi sinh. có khác gì niềm vui của người thầy thuốc giành lại sự sống cho người bệnh từ tay thần chết…
Có lẽ tôi sẽ còn nghĩ ngợi miên man nếu Phương chưa trở lại. Em cầm trong tay tấm phim to bằng trang giấy học sinh. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy một phần cơ thể của mình trên hình ảnh, hồi hộp, lo âu. Chỉ một lời nói của Phương lúc này là quyết định phần đời còn lại của tôi. Nếu tôi bị lao phổi có nghĩa là tôi phải vĩnh viễn rời xa bục giảng.
Phương giơ tấm phim lên, chỉ vào từng vùng sáng tối giải thích:
- Thưa cô, kết quả xét nghiệm cho thấy tình trạng sức khỏe của cô hiện thời không đáng lo ngại. Không có dấu hiệu bệnh nguy hiểm. Cô chỉ bị yếu phổi. Hiện tượng ho ra máu là do viêm họng, xung huyết. Cô cần được nghỉ ngơi ít ngày và sử dụng thuốc theo chỉ dẫn, nếu thấy trong người còn mệt cô trở lại đây.
Tôi run run đón lấy tấm phim từ tay Phương, khẽ nói “cám ơn em” mà nỗi xúc động như muốn vỡ òa.
Phương tiễn tôi ra cổng bệnh viện. Quãng đường ngắn không cho phép cô trò nhắc nhiều về kỷ niệm, nhưng hình ảnh cậu học trò mặc chiếc áo vá nhiều miếng to, đạp xích lô và căn nhà chật chội trong hẻm hiển hiện trong tâm trí tôi. Sực nhớ điều gì tôi hỏi:
- Hai em của Phương thế nào?
- Dạ, tốt nghiệp đại học hết cả rồi cô ạ. Một đứa Bách khoa, một đứa kinh tế.
- Ôi trời ! Giỏi quá. Làm thế nào mà nuôi nhau ăn học?
- Dạ, cũng tự lao động kiếm sống thôi ạ. Chật vật, gian nan lắm, nhưng rồi cũng qua.
- Em làm cô bất ngờ quá đấy Phương ạ. Sự thành đạt của các em là bài học làm người.
- Em vẫn nhớ, khi giảng bài, cô thường nói: Hạnh phúc chỉ có thể đạt được bằng nghị lực vươn lên không ngừng.
Tôi tin Phương thành thật, vì em nói điều đó sau những trải nghiệm của chính cuộc đời mình
Chia tay Phương, tôi ra khỏi bệnh viện trong trạng thái nhẹ nhõm như chưa từng đau ốm. Phần vì Phương đã cho tôi biết tôi không bị lao phổi, nhưng lý do quan trọng hơn khiến tôi trở nên khỏe khoắn là vì tôi vừa được chứng kiến “thành quả” của mình. Người thầy giáo thường mang tâm sự buồn vì nghề dạy học vất vả, âm thầm nhưng chẳng bao giờ được nhìn thấy “sản phẩm”. Thì đây, sản phẩm của nghề dạy học là những con người, những thầy thuốc, kỹ sư, nghệ sĩ, nhà kinh tế, nhà lãnh đạo…
Tôi sung sướng nhận ra, với tôi, không có chỗ đừng nào tốt đẹp hơn chỗ đứng trên bục giảng.
Lê Khánh Mai
Kết thúc đợt công tác ở Hà Nội, tôi trở về trên chuyến tàu Thống Nhất, đến ga Nha Trang lúc 12 giờ đêm. Chị phát thanh viên đón chào hành khách bằng cái giọng trầm khàn vọng vào đêm sâu làm cho cả con tàu bừng tỉnh giấc. Niềm háo hức của người đi xa, về với nơi thân thuộc gắn bó khiến bước chân tôi nhanh nhẹn lạ thường. Nhoáng một cái tôi đã ở ngoài phố. Thật yên tĩnh: vườn hoa với những chiếc ghế đá trầm ngâm; con đường thoáng đãng, mải miết chạy dài về phía biển. Tôi gọi xích lô để được về thật nhanh với ngôi nhà ấm cúng, nơi có những đứa con kháu khỉnh, mà những ngày xa lòng tôi nôn nao nhớ. Một người đạp chiếc xích lô tiến lại. Dưới ánh điện nhập nhoà, tôi thấy đó là một thanh niên dáng dong dỏng, mặc chiếc áo sẫm màu vá nhiều miếng to, chiếc mũ lá rộng vành sụp xuống mặt. Cậu ta còn quá trẻ - tôi đoán vậy
- Về phố Cửu Long bao nhiêu em?
Tôi hỏi giá, vì nghe nói giá xe ban đêm gấp đôi ban ngày, vả lại túi tôi đã cạn sau chuyến đi dài.
- Dạ mười ngàn .
Chàng trai đáp một cách từ tốn và rất nhỏ. Tôi nghĩ, không phải đi bộ quãng đường hai cây số, mà chỉ mất chừng ấy tiền thì không nên đắn đo. Nhưng tôi có quyền mặc cả cơ mà:
- Năm ngàn nhé!
- Dạ.
Tiếng “dạ” có vẻ nhỏ hơn. Tôi lên xe, thầm nghĩ chàng trai này dễ chịu thật, loại người chăm chỉ đây, chắc hoàn cảnh khó khăn nên mới phải làm lụng đêm hôm vất vả thế này.
Thành phố ngủ say. Không có tiếng động nào ngoài tiếng xích xe nhịp đều đều theo đôi chân mải miết của chàng trai. Những vòm cây, những mái nhà tôi đã bao lần đi qua, dừng lại, ngắm nhìn, vậy mà trong đêm, tất cả trở nên lạ lẫm. Tất cả đột ngột hiện ra rồi lặng lẽ lùi vào vắng vẻ.
Tôi yêu sự yên tĩnh này bằng một cảm xúc mới mẻ như lần đầu tiên tôi nhận ra cái thơ mộng của phố xá lúc đêm khuya. Tôi hít sâu vào lồng ngực, hưởng lấy chút không khí trong lành ẩm ướt hơi sương. Chưa kịp nghĩ ngợi gì thì xe đã dừng lại trước cảnh cổng sắt sơn xanh ẩn giữa bờ hoa giấy. Tôi trả tiền, chàng trai không nhận, chỉ vội vã quay xe, rồi nói, vẫn cái giọng rất nhỏ:
- Cô về nghỉ ạ, em đi.
Bây giờ tôi mới ngẩn nhìn chàng trai:
- Phương!
Tôi thốt lên ngạc nhiên, ngỡ ngàng nhận ra cậu học trò lớp 12A mà tôi đang chủ nhiệm. Không nói được gì thêm, tôi đứng trân trân giữa đường nhìn theo bóng Phương lẫn vào phố vắng. Một cảm giác xấu hổ làm tôi đau nhói. Tôi trách mình sao vô tình đến thế? Sao tôi không nhận ra Phương. Phải vì em mặc chiếc áo vá nhiều miếng to? Tôi lại còn mặc cả tiền bạc nữa chứ. Điều này có vẻ mâu thuẫn với những những gì hay ho mà tôi say sưa rao giảng trên lớp. Những ý nghĩ xót xa dày vò khiến tôi đứng ngoài phố một lúc lâu mới gọi người nhà mở cửa. Đêm ấy tôi trằn trọc cho đến khi đài phát thanh thành phố truyền đi bản nhạc quen thuộc đầu tiên trong ngày.
* * *
Tôi đến lớp với tâm trạng buồn khó tả. Câu chuyện hôm qua giúp tôi hiểu rằng không thể đánh giá học sinh một cách hời hợt, nông cạn. Năm mươi học sinh ngồi đây là năm mươi thế giới bí ẩn. Tâm hồn các em như cầu vồng bảy sắc mà ta bất chợt nhìn thấy nhờ những tia sáng mặt trời.
Phương vẫn ngồi kia, góc cuối lớp, nét mặt không gì đổi khác, mà sao bây giờ tôi mới nhìn kỹ, cái mũi cao thẳng trên khuôn mặt khôi ngô, đôi mắt luôn ngời lên ánh nhìn thông minh và ngay thật. Bao giờ Phương cũng chỉnh tề với mái tóc gọn gàng, áo sơ mi tém trong chiếc quần xanh ngay ngắn. Cái dáng cao và nước da trắng làm nên vẻ thư sinh, khiến tôi không nhận ra em trong “vai” chàng trai đạp xích lô đêm qua.
Tôi nhớ lại những cuộc họp hội đồng giáo dục, nhiều ý kiến phản ánh tình hình học sinh. Để tiếp tục cắp sách đến trường đối với các em không đơn giản chút nào. Có em phải bán trứng luộc trên tàu, bán hành rong ngoài bờ biển, gánh nước thuê, đạp xích lô… Tôi cho rằng đó là những thực tế không tránh khỏi của miền Nam sau giải phóng, nhưng lại đinh ninh rằng lớp tôi không có những trường hợp như vậy, bởi vì ánh mắt các em bình thản, vô tư lắm. Hoá ra lâu nay tôi toàn nhận xét học sinh theo cảm tính. Tôi có biết đâu, đằng sau tiếng cười hồn nhiên của các em là một cuộc sống đầy vất vả, lo toan.
Tôi không thể làm ngơ trước một học trò như Phương được. Tôi phải tìm hiểu hoàn cảnh, tâm tư của em, ý nghĩ đó thúc bách tôi mạnh mẽ. Giờ nghỉ, tôi gọi Phương ra hành lang.
- Hôm qua cô có lỗi là không nhận ra em. Cám ơn em đã đưa cô về nhà, nhưng tại sao em lại có vẻ tránh cô thế nhỉ?
- Thưa cô, Em thực sự không muốn cô phải bận lòng nhiều vì chúng em…
- Sao em phải đạp xích lô ban đêm?
- Dạ, em thuê chiếc xích lô này. Chủ xe đi ban ngày, ban đêm họ nghỉ, cho thuê.
- Đêm nào cũng vậy, còn thời gian nào mà nghỉ ngơi?
- Thường lệ cứ 7 giờ tối, em đi các phố đón khách, sau đó lên ga chờ khách xuống tàu. Em về nhà lúc 2 giờ sáng ngủ đến 5 giờ dậy, đi học.
- Ngủ ít vậy mà cô không thấy em ngủ gật?
- Dạ, em quen rồi.
- Cô còn mắc nợ em đấy, chủ nhật cô đến nhà thăm em được chứ?
Phương “dạ” một tiếng rồi đi vào lớp, hoà trong đám học sinh đang gõ bàn hát ầm ĩ. Tôi nghĩ, em không thể sống vô tư.
* * *
Phương ở trong hẻm một khu phố lao động. Căn nhà chật chội, với những đồ vật sơ sài sắp đặt không được hợp lý lắm. Tất cả muốn nói rằng cái “hậu phương” của em chẳng có gì là vững chắc. Phương kéo ghế, mời tôi ngồi, cử chỉ chững chạc, lễ độ và tự nhiên, không có sự khúm núm mà tôi thường gặp ở một số học sinh. Vừa rót nước ra những chiếc ly thủy tinh, em vừa kể:
“Bố em là lính, mất tích trước 1975. Mẹ em cũng mới mất cách đây hai năm. Bệnh hen suyễn đã hành hạ bà suốt cuộc đời. Cho đến giờ em vẫn không thể nào quên hình ảnh mẹ khô gầy, hố mắt trũng sâu, đêm đêm không ngủ được, mẹ phải dựa lưng vào vách, há miệng ra thở những hơi thở khò khè, nặng nhọc. Căn bệnh hiểm nghèo, nên mọi sự chữa chạy đều vô hiệu. Mỗi lần lên cơn khó thở, mẹ co rúm người, vật vã khổ sở. Mẹ bảo chỉ mong chết. Em ước mình là bác sĩ để cứu mẹ. Mẹ mất, cuộc sống chúng em càng khó khăn. Hai đứa em nhỏ cũng đang tuổi ăn học. Mấy lần em tính bỏ học, đi làm kiếm tiền nuôi các em, nhưng xa lớp, xa các bạn, nhớ quá, không chịu nổi. Mới lại em ước mơ trở thành bác sĩ nên phải cố gắng cô ạ…”
Bây giờ thì tôi hiểu vì sao Phương học giỏi. Mỗi sự vươn lên để chiến thắng hoàn cảnh, đều có một động lực bên trong. Từ đó, mỗi khi giảng bài, tôi thường nhìn vào mắt em, ở đó niềm hy vọng đang cháy lên và tôi như được tiếp thêm sức mạnh.
* * *
Bẵng đi một thời gian dài, dễ đến bảy, tám năm, tôi đã là bà giáo thâm niên trong nghề. Bao nhiêu lớp học sinh đi qua cuộc đời, bao nhiêu gương mặt lưu lại trong tâm trí, có những điều bị xoá nhoà, lãng quên, có những niềm vui, nỗi buồn khắc sâu thành kỷ niệm. Tôi bắt đầu ngấm mệt, bắt đầu cảm nhận những bất cập và cả nỗi buồn của nghề dạy học.
Một buổi sáng, sau khi dạy xong bốn tiết văn, tôi bước ra khỏi lớp bỗng thấy đầu choáng váng mắt nhoà đi, cổ họng đau cứng như có vật gì to lắm chẹn lại, ngực tức tựa hồ ai đem đặt vào đó một tảng đá. Tôi ho rũ và khạc ra một cục máu đỏ bầm to bằng đầu ngón tay. Không tin ở mắt mình, tôi nhìn kỹ lại, thì đúng là một cục máu. Tôi bàng hoàng kinh sợ, nghĩ đó là dấu hiệu của bệnh “lao” và rùng mình nhớ đến những đồng nghiệp của tôi đã chết vì lao phổi. Hai mươi năm cầm phấn, viết và nói, tôi đã hít không biết bao nhiêu vi trùng. Những hạt bụi trắng, li ti mà những người làm thơ, làm nhạc đã tha thiết ngợi ca. Tuổi trẻ vốn tin vào những gì đẹp đẽ. Tôi cũng một thời thi vị hoá bụi phấn. Cứ để mặc cho phấn nhuộm trắng bàn tay như một bông hoa huệ; Cứ để phấn bám đầy quần áo, rắc mịn màng lên tóc, bay vào mũi, vào miệng, đó mới thật sự yêu nghề, xả thân vì đạo. Cứ gào lên mà giảng, chẳng hề băn khoăn về hai lá phổi. Mấy lần thấy đau cuống họng, ngậm vài viên ômai ngòn ngọt, dìu dịu lại nói rất say sưa. Có lúc mệt lử tự dặn mình đừng hăng quá, phí sức, nói nhỏ lại, ít đi, chậm rãi hơn, nhưng gặp chỗ tâm đắc, hứng lên, lại thao thao bất tuyệt. Chợt nhớ mình quá đà thì cổ họng đã sưng tấy lên rồi.
Lần này không thể xem thường, tôi phải đến bệnh viện. Phòng khám khá đông. Tôi lấy cuốn sách “Giáo dục con người chân chính” của Xu-khôm-lin-xki ra đọc, chờ đến phiên mình.
- Chào cô ạ - Một người mặc áo bơ - lu trắng, mang kính cận, nhìn tôi, cười:
- Thưa cô, cô khám bệnh ạ, cô có nhận ra em không?
Trong giây lát, những gương mặt học trò lần lượt hiện lên trong trí nhớ.
- A, Phương! – Tôi khẽ reo lên - Thế ra bây giờ em không tránh cô như dạo trước nữa.
- Dạ. Sau khi tốt nghiệp đại học Y khoa, em về làm việc bệnh viện này. Thưa cô, mời cô vào phòng khám.
Hôm ấy, chính Phương đã khám bệnh cho tôi, đôi mắt em nheo lại, đăm chiêu dõi theo từng nhịp thở của tôi qua chiếc ống nghe. Sự bình tĩnh và thành thạo của Phương làm cho tôi hoàn toàn tin cậy. Tôi đâu còn là cô giáo của em như ngày nào trang nghiêm trên bục giảng. Tôi là bệnh nhân, còn em là thầy thuốc. Phương đưa tôi đến phòng khám tai mũi họng, khoa X quang chụp phổi. Cử chỉ của Phương khẩn trương, dứt khoát, tôi chỉ biết phục tùng như một cái máy. Sau đó, tôi đến ghế đá vườn hoa giữa bệnh viện ngồi chờ kết quả xét nghiệm. Một chiếc lá xanh non khẽ chạm vào tay tôi như một cử chỉ dịu dàng. Chẳng có cơn gió nào giật đi chiếc lá như trong truyện của O. Henry. Vây quanh tôi là muôn nghìn con mắt lá, tràn trề hy vọng. Ngồi ở vườn hoa tôi có thể nhìn toàn cảnh bệnh viện. Một chiếc cáng đưa một bệnh nhân vừa chết xuống Nhà vĩnh biệt, những tiếng khóc dữ dội đi theo. Một anh thanh niên ngồi ở ghế đá bên cạnh nở một nụ cười sung sướng khi có người đến báo tin vợ anh vừa sinh con trai đầu lòng. Ở đây sự sống và cái chết diễn ra trong khoảnh khắc. Nếu có khi nào ta đứng trong khoảnh khắc ấy sẽ cảm nhận sâu sắc hơn hạnh phúc và khổ đau. Những người thầy thuốc là những chiến sĩ gan góc, họ đang chiến đấu âm thầm, giành lại sự sống, niềm hạnh phúc cho con người, mà sao bây giờ tôi mới thấm thía điều này. Phải chăng, chỉ lúc nào ta là bệnh nhân, bị nỗi đau thể xác dày vò, ta mới suy nghĩ về công lao của người thầy thuốc?
Chị bạn tôi là bác sĩ phàn nàn rằng “nghề Y khổ sở lắm. Mổ bụng người, cắt cả khúc ruột thừa, mà tiền bồi dưỡng không bằng tiền trả cho anh thợ ngồi ở đầu đường vá cái ruột xe”. Ồ, thế thì nghề dạy học của tôi có hơn gì? Tiền bồi dưỡng cho một giờ dạy học ngoài tiêu chuẩn, gọi là giờ phụ trội, chỉ mua được một quả chanh. những chuyện như thế thật vô cùng, làm sao có thể ghi hết bằng vài trang truyện? Có điều là tôi, chị và tất cả mọi người vẫn sống, vẫn làm việc. Chúng ta là những trí thức không thể lạc quan theo kiểu A-Q nhưng chắc chắn còn có một sức mạnh vô hình nào quyết định sự sống của ta. Bát cơm, manh áo, chẳng đơn giản chút nào, nó làm ta chóng mặt. Nhưng đáng sợ hơn khi trái tim ngủ yên, bộ óc ngủ yên…
Có những lúc tôi tưởng mình sắp ngã xuống giữa bục gíảng cao và vững chãi như cái điểm tựa kia. Nhưng rồi lòng tự trọng đã buộc tôi phải đứng lên với một tư thế đàng hoàng. Mỗi giờ dạy thất bại khiến tôi đau đớn hơn cả nỗi đau thể xác. Mỗi một giờ dạy thành công thì niềm hạnh phúc ùa đến ngập tràn, như được hồi sinh. có khác gì niềm vui của người thầy thuốc giành lại sự sống cho người bệnh từ tay thần chết…
Có lẽ tôi sẽ còn nghĩ ngợi miên man nếu Phương chưa trở lại. Em cầm trong tay tấm phim to bằng trang giấy học sinh. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy một phần cơ thể của mình trên hình ảnh, hồi hộp, lo âu. Chỉ một lời nói của Phương lúc này là quyết định phần đời còn lại của tôi. Nếu tôi bị lao phổi có nghĩa là tôi phải vĩnh viễn rời xa bục giảng.
Phương giơ tấm phim lên, chỉ vào từng vùng sáng tối giải thích:
- Thưa cô, kết quả xét nghiệm cho thấy tình trạng sức khỏe của cô hiện thời không đáng lo ngại. Không có dấu hiệu bệnh nguy hiểm. Cô chỉ bị yếu phổi. Hiện tượng ho ra máu là do viêm họng, xung huyết. Cô cần được nghỉ ngơi ít ngày và sử dụng thuốc theo chỉ dẫn, nếu thấy trong người còn mệt cô trở lại đây.
Tôi run run đón lấy tấm phim từ tay Phương, khẽ nói “cám ơn em” mà nỗi xúc động như muốn vỡ òa.
Phương tiễn tôi ra cổng bệnh viện. Quãng đường ngắn không cho phép cô trò nhắc nhiều về kỷ niệm, nhưng hình ảnh cậu học trò mặc chiếc áo vá nhiều miếng to, đạp xích lô và căn nhà chật chội trong hẻm hiển hiện trong tâm trí tôi. Sực nhớ điều gì tôi hỏi:
- Hai em của Phương thế nào?
- Dạ, tốt nghiệp đại học hết cả rồi cô ạ. Một đứa Bách khoa, một đứa kinh tế.
- Ôi trời ! Giỏi quá. Làm thế nào mà nuôi nhau ăn học?
- Dạ, cũng tự lao động kiếm sống thôi ạ. Chật vật, gian nan lắm, nhưng rồi cũng qua.
- Em làm cô bất ngờ quá đấy Phương ạ. Sự thành đạt của các em là bài học làm người.
- Em vẫn nhớ, khi giảng bài, cô thường nói: Hạnh phúc chỉ có thể đạt được bằng nghị lực vươn lên không ngừng.
Tôi tin Phương thành thật, vì em nói điều đó sau những trải nghiệm của chính cuộc đời mình
Chia tay Phương, tôi ra khỏi bệnh viện trong trạng thái nhẹ nhõm như chưa từng đau ốm. Phần vì Phương đã cho tôi biết tôi không bị lao phổi, nhưng lý do quan trọng hơn khiến tôi trở nên khỏe khoắn là vì tôi vừa được chứng kiến “thành quả” của mình. Người thầy giáo thường mang tâm sự buồn vì nghề dạy học vất vả, âm thầm nhưng chẳng bao giờ được nhìn thấy “sản phẩm”. Thì đây, sản phẩm của nghề dạy học là những con người, những thầy thuốc, kỹ sư, nghệ sĩ, nhà kinh tế, nhà lãnh đạo…
Tôi sung sướng nhận ra, với tôi, không có chỗ đừng nào tốt đẹp hơn chỗ đứng trên bục giảng.
Chiêm ngưỡng những cây cầu “độc nhất vô nhị” trên khắp thế giới.
Bạn biết được bao nhiêu cây cầu trên thế giới, những chiếc cầu độc đáo này sẽ khiến bạn phải ngạc nhiên đấy.
1. Cầu treo Capilano, Canada, bạn có dám bước qua cây cầu vắt vẻo giữa không trung này không?
2. Cầu Infinity ở Vương Quốc Anh như cánh chim trời khổng lồ vừa sà xuống mặt nước.
3. Cây cầu đá cổ Rakotzbrücke ở Đức chắc chắn sẽ đốn gục những tâm hồn yêu thiên nhiên.
4. Cầu Charles, Cộng hòa Séc lại mang một vẻ huyền bí kỳ ảo như bước vào một bộ phim ma thuật nào đó.
5. Quả thực, khoảnh khắc chân thực và tự nhiên của cây cầu Trăng (Moon Bridge) của Đài Loan còn đẹp hơn tranh trung cổ.
6. Hàn Quốc thì có cây cầu Banpo với kiến trúc hiện đại và độc đáo.
7. Cầu Mostar của một đất nước ở Đông Âu, Bosnia, lại như một cây cầu trong những câu chuyện cổ tích.
8. Nhưng cũng có những chiếc cầu đầy bí ẩn như cây cầu Alishan dẫn vào khu rừng âm u khiến người ta liên tưởng đến một bộ phim kinh dị nào đó (Đài-loan).
9. Sự hòa hợp giữ thiên nhiên và con người lại được thấy rõ qua một cây cầu làm bằng rễ cây lâu năm ở Ấn Độ.
10. Cầu Roma ở Tây Ban Nha lại mang đúng những công trình đầy hùng vĩ của người cổ đại.
11. Cầu High Trestle Trail của Mỹ khiến ta như bị rơi vào một vòng xoáy các ô vuông ảo giác.
12. Cầu Constantine của nước Algeria tại một địa hình hiểm trở. Quả là một công trình vĩ đại minh chứng cho sức mạnh chế ngự thiên nhiên của con người.
13. Cầu Tự do (Liberty Bridge) của Hungary mang sắc màu của một Châu Âu thời cổ kính.
14. Cây cầu Moses của Hà Lan đã khiến ta phải định nghĩa lại về “cây cầu” khi nó được xây dựng một cách ngược đời, rẽ đôi giữa dòng nước.
15. Cầu Langkawi Sky của Malaysia có lẽ là tiêu biểu nhất cho từ “cầu treo”.
16. Không cần chờ mưa đến rồi mưa tạnh mới thấy được cầu vồng, người dân Đài Loan có thể ngắm cầu vồng mỗi khi đêm xuống. Đó chính là nhờ cây cầu Cầu Vồng (Rainbow Bridge) với bóng hình phản trên mặt sông lung linh 7 sắc màu.
17. Nếu Rainbow Bridge là một cô gái trẻ thì hẳn cây cầu cổ vô danh ở Pháp này lại là một bà lão. Nó không còn mang một vẻ đẹp mơ mộng và huyền ảo của ngày xưa nữa.
18. Cầu không khí (Air Bridge) của Anh lại khiến người ta lo lắng vì dáng vẻ mỏng manh như tên gọi của nó.
(Nguồn: Bright Side)
Bạn biết được bao nhiêu cây cầu trên thế giới, những chiếc cầu độc đáo này sẽ khiến bạn phải ngạc nhiên đấy.
1. Cầu treo Capilano, Canada, bạn có dám bước qua cây cầu vắt vẻo giữa không trung này không?
2. Cầu Infinity ở Vương Quốc Anh như cánh chim trời khổng lồ vừa sà xuống mặt nước.
3. Cây cầu đá cổ Rakotzbrücke ở Đức chắc chắn sẽ đốn gục những tâm hồn yêu thiên nhiên.
4. Cầu Charles, Cộng hòa Séc lại mang một vẻ huyền bí kỳ ảo như bước vào một bộ phim ma thuật nào đó.
5. Quả thực, khoảnh khắc chân thực và tự nhiên của cây cầu Trăng (Moon Bridge) của Đài Loan còn đẹp hơn tranh trung cổ.
6. Hàn Quốc thì có cây cầu Banpo với kiến trúc hiện đại và độc đáo.
7. Cầu Mostar của một đất nước ở Đông Âu, Bosnia, lại như một cây cầu trong những câu chuyện cổ tích.
8. Nhưng cũng có những chiếc cầu đầy bí ẩn như cây cầu Alishan dẫn vào khu rừng âm u khiến người ta liên tưởng đến một bộ phim kinh dị nào đó (Đài-loan).
9. Sự hòa hợp giữ thiên nhiên và con người lại được thấy rõ qua một cây cầu làm bằng rễ cây lâu năm ở Ấn Độ.
10. Cầu Roma ở Tây Ban Nha lại mang đúng những công trình đầy hùng vĩ của người cổ đại.
11. Cầu High Trestle Trail của Mỹ khiến ta như bị rơi vào một vòng xoáy các ô vuông ảo giác.
12. Cầu Constantine của nước Algeria tại một địa hình hiểm trở. Quả là một công trình vĩ đại minh chứng cho sức mạnh chế ngự thiên nhiên của con người.
13. Cầu Tự do (Liberty Bridge) của Hungary mang sắc màu của một Châu Âu thời cổ kính.
14. Cây cầu Moses của Hà Lan đã khiến ta phải định nghĩa lại về “cây cầu” khi nó được xây dựng một cách ngược đời, rẽ đôi giữa dòng nước.
15. Cầu Langkawi Sky của Malaysia có lẽ là tiêu biểu nhất cho từ “cầu treo”.
16. Không cần chờ mưa đến rồi mưa tạnh mới thấy được cầu vồng, người dân Đài Loan có thể ngắm cầu vồng mỗi khi đêm xuống. Đó chính là nhờ cây cầu Cầu Vồng (Rainbow Bridge) với bóng hình phản trên mặt sông lung linh 7 sắc màu.
17. Nếu Rainbow Bridge là một cô gái trẻ thì hẳn cây cầu cổ vô danh ở Pháp này lại là một bà lão. Nó không còn mang một vẻ đẹp mơ mộng và huyền ảo của ngày xưa nữa.
18. Cầu không khí (Air Bridge) của Anh lại khiến người ta lo lắng vì dáng vẻ mỏng manh như tên gọi của nó.
(Nguồn: Bright Side)
Khích lệ con trai đi bán áo cũ, người cha nghèo không ngờ cậu trở thành tỷ phú đô la sau này
Câu chuyện kể về một cậu bé nghèo 13 tuổi, một hôm cha cậu nhờ cậu đi bán áo để kiếm tiền giúp đỡ gia đình. Nghĩ cha cần tiền mới sai con mình đi bán chiếc áo cũ, nhưng câu chuyện sau đó còn đi xa hơn thế… và cậu bé đã trở thành một ‘huyền thoại’.
Năm đó khi cậu mới 13 tuổi, một hôm cha cậu bé đưa cho cậu một chiếc áo cũ rồi hỏi: “Con nghĩ chiếc áo này đáng giá bao nhiêu tiền?”
“Khoảng 1 đô-la” (tương đương với khoảng 22 nghìn đồng), cậu bé trả lời.
“Con có thể bán nó với giá 2 đô-la không? (tương đương với khoảng 44 nghìn đồng), cha cậu bé vừa hỏi vừa dùng ánh mắt như cầu khẩn nhìn cậu bé.
“Có kẻ ngốc mới mua chiếc áo này”, cậu bé trả lời.
Nhìn chiếc áo cũ, cậu bé không tin là sẽ có người mua.
Người cha lại nhìn con với ánh mắt chân thành, khích lệ: “Sao còn không thử xem? Con biết không? Gia đình mình đang gặp khó khăn, nếu con bán được chiếc áo này, nó có thể giúp được chúng ta rất nhiều.”
Sau khi nghe cha mình nói vậy, cậu bé gật đầu đồng ý: “Con sẽ thử xem, nhưng không nhất định có thể bán được.”
Cậu bé đem chiếc áo đi giặt rất cẩn thận, vì không có bàn là để là áo, cậu dùng bản chải để giặt chiếc áo, sau đó để chiếc áo lên một miếng gỗ phẳng trong bóng râm phơi khô. Sáng ngày hôm sau, cậu bé đem chiếc áo đến một ga tàu điện đông người qua lại. Sau 6 tiếng đồng hồ không ngừng chào mời người qua lại, cuối cùng cậu bé cũng bán được chiếc áo với giá 2 đô-la .
Inline images 3
Một lần nữa, cậu bé lại có thể bán được chiếc áo cũ theo đúng yêu cầu của cha.
Cậu vội vàng cầm số tiền bán được chạy một mạch về nhà đưa cho cha. Sau đó, mỗi ngày cậu đều đi tìm quần áo cũ ở đống đồ bỏ đi trong thành phố mang về nhà giặt sạch đem đi bán.
Cứ liên tục như vậy hơn chục ngày, một hôm cha cậu bé lại đưa cho cậu một chiếc áo cũ khác: “Con có thể bán chiếc áo này với 20 đô-la không (tương đương với khoảng hơn 440.000 nghìn đồng)? – “Làm sao có thể được cơ chứ? Một chiếc áo cũ làm gì có giá trị cao như vậy được, cùng lắm là 2 đô-la” – “Sao con không thử nghĩ cách xem, nhất định là có cách”, cha cậu bé khích lệ.
Cuối cùng cậu bé nghĩ ra một cách, cậu nhờ anh họ của mình, anh cậu là một người rất đam mê hội hoạ, đã tự học vẽ rất đẹp. Cậu nhờ anh họ của mình vẽ cho cậu một con chim đại bàng và một chú chuột nhắt đáng yêu lên chiếc áo. Sau rồi cậu chọn một ngôi trường học, nơi có nhiều thiếu gia con nhà giàu theo học ở đó, cậu đứng ở cổng trường chào mời người mua. Vừa mới chào mời một lúc liền có một người quản gia đến mua chiếc áo cho thiếu gia của mình. Cậu thiếu gia đó đã vô cùng thích thú khi có được chiếc áo liền bo thêm cho cậu 5 đô-la (tương đương với khoảng hơn 100 nghìn đồng), tổng cộng cậu bán được chiếc áo 25 đô-la(tương đương với khoảng hơn 500 nghìn đồng). Đây là một số tiền khá lớn đối với gia đình cậu, số tiền này có thể tương ứng với gần một tháng lương của cha cậu khi ấy.
Sau khi về nhà, cha cậu lại đưa cho cậu một chiếc áo khác và nói: “Con có thể bán chiếc áo này với giá 200 đô-la (tương đương với khoảng hơn 4,4 triệu đồng) được không?”, cha cậu nhìn cậu với một ánh mắt đầy tin tưởng. Lúc này, cậu bé không hề do dự, cậu đón nhận chiếc áo bằng cả hai tay mình, bắt đầu suy nghĩ…
2 tháng sau, cuối cùng thì cơ hội cũng đã đến. Hôm đó, nữ diễn viên chính của bộ phim đang nổi tiếng “Những Thiên Thần của Charlie” đến thành phố cậu bé để quảng bá phần tiếp theo của bộ phim. Sau khi buổi họp với ký giả kết thúc, cậu bé mạnh dạn chen lên phía trước, chạy đến bên cạnh nữ diễn viên Farrah Fawcett – Majors, đưa chiếc áo cũ ra rồi xin cô ký tên lên đó. Farrah Fawcett – Majors thấy vậy ngẩn người ra một lúc nhưng rồi vẫn vui vẻ tươi cười ký lên chiếc áo, không ai có thể nỡ từ chối một cậu bé dễ thương với ánh mắt hồn nhiên trong sáng như vậy.
Cậu bé thông minh đã không bỏ lỡ cơ hội khi nữ diễn viên chính Farrah Fawcett (trái) trong bộ phim nổi tiếng “Những thiên thần của Charlie” đến.
Sau khi ký xong, cậu bé hỏi cô: “Cháu có thể bán chiếc áo này được không ạ?” – “Đương nhiên là có thể được rồi, đây là áo của cháu, cháu có thể bán nó nếu cháu muốn, đây là quyền tự do của cháu.”
Cậu bé đứng trên bục hô to một tiếng: “Đây là chiếc áo do đích thân nữ diễn viên xinh đẹp Farrah Fawcett – Majors ký tên, giá nó là 200 đô-la ”.
Sau khi qua cuộc đấu giá, cuối cùng chiếc áo đã bán được với số tiền không tưởng, 1200 đô-la (tương đương với khoảng hơn 26,4 triệu đồng). Về đến nhà, cậu thấy cha mình cùng một người khác đang ở nhà. Cha cậu bé cảm động mà ôm cậu vào lòng, hôn lên trán cậu: “Cha vốn dĩ dự tính, nếu con không bán được, cha sẽ nhờ người mua nó lại, thật không ngờ con lại giỏi đến thế! Con thực sự rất giỏi…”
Buổi tối hôm đó hai cha con cậu bé đã ngồi nói chuyện với nhau rất lâu. Cha cậu hỏi: “Con trai, từ sự việc của 3 chiếc áo này, con có hiểu được ra điều gì không?
“Con hiểu rồi, cha đã khích lệ con”, cậu bé cảm động nhìn cha rồi nói tiếp: “Chỉ cần chúng ta động não suy nghĩ, không việc gì là không thể làm được, việc khó đến đâu cũng có cách giải quyết của nó.” Cha cậu bé gật đầu đồng ý, nhưng rồi lại lắc đầu nói: “Con nói cũng rất đúng nhưng đó không phải là ý định ban đầu của cha.”
“Cha chỉ muốn nói với con rằng, một chiếc áo cũ chỉ đáng giá 1 đô-la vẫn có cách để tăng giá trị của mình, cớ sao chúng ta, chúng ta cớ sao phải bi quan với cuộc sống này đúng không con? Chúng ta tuy nghèo môt chút, nhưng có sao đâu, chúng ta có nhiều hơn một chiếc áo 1 đô la và con thấy không, một chiếc áo 1 đô la cũng có thể làm nên điều kỳ diệu.”
“Đúng vậy, một chiếc áo cũ còn có thể tự làm cho mình cao quý hơn, vậy chúng ta còn có lý do gì mà không yêu cuộc sống của chính mình hơn cơ chứ!”
Thật không ngờ, cậu bé ngày ấy sau 20 đã trở thành một huyền thoại bóng rổ nổi tiếng nhất thế giới Michael Jordan.
20 năm sau danh tiếng của cậu bé đó đã lan toả lừng danh khắp thế giới, qua từng ngóc ngách các con phố nhỏ, mọi người vẫn thường nhắc tới cậu. Cậu bé đó chính là Michael Jordan, một tỷ phú giàu có, là chủ tịch hội đồng quản trị, cổ đông lớn nhất của tập đoàn Charlotte Hornets.
**********
Cuộc sống vốn không hoàn hảo và chúng ta có thể sống trong một hoàn cảnh khốn khó, bất lợi. Nhưng, hoàn cảnh chỉ là phép thử để mỗi người thể hiện giá trị của mình. Chúng ta có thể bỏ cuộc, hoặc chiến thắng nghịch cảnh hay không phụ thuộc vào việc chúng ta nhìn điều đó bằng con mắt như thế nào. Liệu chúng ta có thể tìm ra giá trị trong chính mình. Bởi vì như chiếc áo 1 đô la, nếu bạn có thể tìm ra giá trị của chính mình, điều khiến bạn khác biệt và nổi bật một các đáng giá, mỗi người đều có thể tỏa sáng theo một cách không ngờ.
Và đừng bao giờ bi quan hay tuyệt vọng nếu ngày hôm nay bạn như chiếc áo 1 đô la ấy, đó là vì bạn chưa nhận thấy giá trị của chính mình. Mỗi người đều là một món quà mà Thương đế tạo ra, ngài chắc chắn cho bạn đủ cơ hội để bạn toá sáng, chỉ là bạn cần một chút nhẫn nại, một chút nỗ lực và không bài giờ nản lòng trước nghịch cảnh…
Câu chuyện kể về một cậu bé nghèo 13 tuổi, một hôm cha cậu nhờ cậu đi bán áo để kiếm tiền giúp đỡ gia đình. Nghĩ cha cần tiền mới sai con mình đi bán chiếc áo cũ, nhưng câu chuyện sau đó còn đi xa hơn thế… và cậu bé đã trở thành một ‘huyền thoại’.
Năm đó khi cậu mới 13 tuổi, một hôm cha cậu bé đưa cho cậu một chiếc áo cũ rồi hỏi: “Con nghĩ chiếc áo này đáng giá bao nhiêu tiền?”
“Khoảng 1 đô-la” (tương đương với khoảng 22 nghìn đồng), cậu bé trả lời.
“Con có thể bán nó với giá 2 đô-la không? (tương đương với khoảng 44 nghìn đồng), cha cậu bé vừa hỏi vừa dùng ánh mắt như cầu khẩn nhìn cậu bé.
“Có kẻ ngốc mới mua chiếc áo này”, cậu bé trả lời.
Nhìn chiếc áo cũ, cậu bé không tin là sẽ có người mua.
Người cha lại nhìn con với ánh mắt chân thành, khích lệ: “Sao còn không thử xem? Con biết không? Gia đình mình đang gặp khó khăn, nếu con bán được chiếc áo này, nó có thể giúp được chúng ta rất nhiều.”
Sau khi nghe cha mình nói vậy, cậu bé gật đầu đồng ý: “Con sẽ thử xem, nhưng không nhất định có thể bán được.”
Cậu bé đem chiếc áo đi giặt rất cẩn thận, vì không có bàn là để là áo, cậu dùng bản chải để giặt chiếc áo, sau đó để chiếc áo lên một miếng gỗ phẳng trong bóng râm phơi khô. Sáng ngày hôm sau, cậu bé đem chiếc áo đến một ga tàu điện đông người qua lại. Sau 6 tiếng đồng hồ không ngừng chào mời người qua lại, cuối cùng cậu bé cũng bán được chiếc áo với giá 2 đô-la .
Inline images 3
Một lần nữa, cậu bé lại có thể bán được chiếc áo cũ theo đúng yêu cầu của cha.
Cậu vội vàng cầm số tiền bán được chạy một mạch về nhà đưa cho cha. Sau đó, mỗi ngày cậu đều đi tìm quần áo cũ ở đống đồ bỏ đi trong thành phố mang về nhà giặt sạch đem đi bán.
Cứ liên tục như vậy hơn chục ngày, một hôm cha cậu bé lại đưa cho cậu một chiếc áo cũ khác: “Con có thể bán chiếc áo này với 20 đô-la không (tương đương với khoảng hơn 440.000 nghìn đồng)? – “Làm sao có thể được cơ chứ? Một chiếc áo cũ làm gì có giá trị cao như vậy được, cùng lắm là 2 đô-la” – “Sao con không thử nghĩ cách xem, nhất định là có cách”, cha cậu bé khích lệ.
Cuối cùng cậu bé nghĩ ra một cách, cậu nhờ anh họ của mình, anh cậu là một người rất đam mê hội hoạ, đã tự học vẽ rất đẹp. Cậu nhờ anh họ của mình vẽ cho cậu một con chim đại bàng và một chú chuột nhắt đáng yêu lên chiếc áo. Sau rồi cậu chọn một ngôi trường học, nơi có nhiều thiếu gia con nhà giàu theo học ở đó, cậu đứng ở cổng trường chào mời người mua. Vừa mới chào mời một lúc liền có một người quản gia đến mua chiếc áo cho thiếu gia của mình. Cậu thiếu gia đó đã vô cùng thích thú khi có được chiếc áo liền bo thêm cho cậu 5 đô-la (tương đương với khoảng hơn 100 nghìn đồng), tổng cộng cậu bán được chiếc áo 25 đô-la(tương đương với khoảng hơn 500 nghìn đồng). Đây là một số tiền khá lớn đối với gia đình cậu, số tiền này có thể tương ứng với gần một tháng lương của cha cậu khi ấy.
Sau khi về nhà, cha cậu lại đưa cho cậu một chiếc áo khác và nói: “Con có thể bán chiếc áo này với giá 200 đô-la (tương đương với khoảng hơn 4,4 triệu đồng) được không?”, cha cậu nhìn cậu với một ánh mắt đầy tin tưởng. Lúc này, cậu bé không hề do dự, cậu đón nhận chiếc áo bằng cả hai tay mình, bắt đầu suy nghĩ…
2 tháng sau, cuối cùng thì cơ hội cũng đã đến. Hôm đó, nữ diễn viên chính của bộ phim đang nổi tiếng “Những Thiên Thần của Charlie” đến thành phố cậu bé để quảng bá phần tiếp theo của bộ phim. Sau khi buổi họp với ký giả kết thúc, cậu bé mạnh dạn chen lên phía trước, chạy đến bên cạnh nữ diễn viên Farrah Fawcett – Majors, đưa chiếc áo cũ ra rồi xin cô ký tên lên đó. Farrah Fawcett – Majors thấy vậy ngẩn người ra một lúc nhưng rồi vẫn vui vẻ tươi cười ký lên chiếc áo, không ai có thể nỡ từ chối một cậu bé dễ thương với ánh mắt hồn nhiên trong sáng như vậy.
Cậu bé thông minh đã không bỏ lỡ cơ hội khi nữ diễn viên chính Farrah Fawcett (trái) trong bộ phim nổi tiếng “Những thiên thần của Charlie” đến.
Sau khi ký xong, cậu bé hỏi cô: “Cháu có thể bán chiếc áo này được không ạ?” – “Đương nhiên là có thể được rồi, đây là áo của cháu, cháu có thể bán nó nếu cháu muốn, đây là quyền tự do của cháu.”
Cậu bé đứng trên bục hô to một tiếng: “Đây là chiếc áo do đích thân nữ diễn viên xinh đẹp Farrah Fawcett – Majors ký tên, giá nó là 200 đô-la ”.
Sau khi qua cuộc đấu giá, cuối cùng chiếc áo đã bán được với số tiền không tưởng, 1200 đô-la (tương đương với khoảng hơn 26,4 triệu đồng). Về đến nhà, cậu thấy cha mình cùng một người khác đang ở nhà. Cha cậu bé cảm động mà ôm cậu vào lòng, hôn lên trán cậu: “Cha vốn dĩ dự tính, nếu con không bán được, cha sẽ nhờ người mua nó lại, thật không ngờ con lại giỏi đến thế! Con thực sự rất giỏi…”
Buổi tối hôm đó hai cha con cậu bé đã ngồi nói chuyện với nhau rất lâu. Cha cậu hỏi: “Con trai, từ sự việc của 3 chiếc áo này, con có hiểu được ra điều gì không?
“Con hiểu rồi, cha đã khích lệ con”, cậu bé cảm động nhìn cha rồi nói tiếp: “Chỉ cần chúng ta động não suy nghĩ, không việc gì là không thể làm được, việc khó đến đâu cũng có cách giải quyết của nó.” Cha cậu bé gật đầu đồng ý, nhưng rồi lại lắc đầu nói: “Con nói cũng rất đúng nhưng đó không phải là ý định ban đầu của cha.”
“Cha chỉ muốn nói với con rằng, một chiếc áo cũ chỉ đáng giá 1 đô-la vẫn có cách để tăng giá trị của mình, cớ sao chúng ta, chúng ta cớ sao phải bi quan với cuộc sống này đúng không con? Chúng ta tuy nghèo môt chút, nhưng có sao đâu, chúng ta có nhiều hơn một chiếc áo 1 đô la và con thấy không, một chiếc áo 1 đô la cũng có thể làm nên điều kỳ diệu.”
“Đúng vậy, một chiếc áo cũ còn có thể tự làm cho mình cao quý hơn, vậy chúng ta còn có lý do gì mà không yêu cuộc sống của chính mình hơn cơ chứ!”
Thật không ngờ, cậu bé ngày ấy sau 20 đã trở thành một huyền thoại bóng rổ nổi tiếng nhất thế giới Michael Jordan.
20 năm sau danh tiếng của cậu bé đó đã lan toả lừng danh khắp thế giới, qua từng ngóc ngách các con phố nhỏ, mọi người vẫn thường nhắc tới cậu. Cậu bé đó chính là Michael Jordan, một tỷ phú giàu có, là chủ tịch hội đồng quản trị, cổ đông lớn nhất của tập đoàn Charlotte Hornets.
**********
Cuộc sống vốn không hoàn hảo và chúng ta có thể sống trong một hoàn cảnh khốn khó, bất lợi. Nhưng, hoàn cảnh chỉ là phép thử để mỗi người thể hiện giá trị của mình. Chúng ta có thể bỏ cuộc, hoặc chiến thắng nghịch cảnh hay không phụ thuộc vào việc chúng ta nhìn điều đó bằng con mắt như thế nào. Liệu chúng ta có thể tìm ra giá trị trong chính mình. Bởi vì như chiếc áo 1 đô la, nếu bạn có thể tìm ra giá trị của chính mình, điều khiến bạn khác biệt và nổi bật một các đáng giá, mỗi người đều có thể tỏa sáng theo một cách không ngờ.
Và đừng bao giờ bi quan hay tuyệt vọng nếu ngày hôm nay bạn như chiếc áo 1 đô la ấy, đó là vì bạn chưa nhận thấy giá trị của chính mình. Mỗi người đều là một món quà mà Thương đế tạo ra, ngài chắc chắn cho bạn đủ cơ hội để bạn toá sáng, chỉ là bạn cần một chút nhẫn nại, một chút nỗ lực và không bài giờ nản lòng trước nghịch cảnh…
Quỹ Thời Gian ...
Thời gian có chừa một ai không? Thời gian quý hơn tiền vì tiền bạn có thể kiếm thêm được nhưng khi thời gian đã đi qua, quỹ thời gian của bạn ngắn lại, hãy sống như là ngày cuối của cuộc sống, sống ý nghĩa, sống yêu thương và sống huy hoàng. Mời các bạn xem phim thời gian...
Thời gian có chừa một ai không? Thời gian quý hơn tiền vì tiền bạn có thể kiếm thêm được nhưng khi thời gian đã đi qua, quỹ thời gian của bạn ngắn lại, hãy sống như là ngày cuối của cuộc sống, sống ý nghĩa, sống yêu thương và sống huy hoàng. Mời các bạn xem phim thời gian...